Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

GS-TS. Võ Tòng Xuân: “Phải cải cách và đổi mới mạnh hơn”




Năm nay 72 tuổi, GS-TS Võ Tòng Xuân – hiệu trưởng trường Đại học Tân Tạo, vẫn nóng bỏng những thao thức làm cho nông dân giàu lên và đổi mới được sự nghiệp giáo dục, như hồi còn làm việc ở đại học Cần Thơ, đại học An Giang…


GS-TS Võ Tòng Xuân sinh ra trong một gia đình nghèo ở Châu Đốc, An Giang. Lúc nhỏ ông lên Sài Gòn tự lập để phụ cha mẹ nuôi các em và để có tiền đi học đến khi thành tài. Ông đã từng đi bán báo dạo dọc các bến xe đò, đêm đi dạy kèm cho học sinh luyện thi. Thế mà một ngày đầu tháng 4-1975, trong khi nhiều người rời đất nước, ông quyết định quay về Việt Nam ngay sau khi trình luận án tiến sĩ nông học ở Nhật.

* Xác định mục đích sống cho đời mình 

Còn nhớ, trong một căn phòng làm việc chật chội ở Đại học Cần Thơ hồi năm 1985, giáo sư Xuân nói: 

- Anh nghĩ coi, nông dân mình, hễ trời sụp tối là phủi sơ hai bàn chân khô sình đất, leo lên giường. Trong lúc đó, ở các nước tiên tiến, nông dân họ đi giày trong nhà, ngồi trước ti vi, lò sưởi hoặc đến các câu lạc bộ nông trang. Mà chắc chắn là họ không anh hùng hơn dân tộc mình, tài nguyên của họ không giàu hơn của mình. 

Rồi ông lại đăm chiêu: 

- Cây lúa ĐBSCL còn bề bộn công việc vây quanh nó. Lúa mùa, đất ngập mặn, nhiễm phèn, trình độ dân trí… Làm sao để tìm ra được giống lúa thích hợp kèm theo các kỹ thuật tương ứng? Tôi thao thức nhiều về những vùng đất hoang lớn ở đồng bằng này, mà nông dân thì họ bỏ đi, bám sống ven quốc lộ với tỷ lệ sinh đẻ quá cao, cứ như phó mặc cho số phận.

Trước đó, những năm 1975-1977, người ta hay gặp ông và nhiều đồng nghiệp cùng hàng trăm sinh viên Đại học Cần Thơ, lặn lội qua hàng ngàn héc ta ruộng lúa cháy rụi vì giặc rầy nâu, băng qua những cánh rừng tràm xơ xác vì thuốc khai hoang thời chiến tranh, những đồng cỏ năn dày mịt, hoang vắng mênh mông. Khi thì lội bì bõm, khi thì lắc lư trên chiếc xuồng nhỏ hoặc ngồi nghêu ngao trên những mui tàu đò; lúc đi xe đạp, lúc chạy xe gắn máy hay đeo cửa một chuyến xe đò nào đó trên các tuyến hương lộ đồng bằng.

Mười năm đầu sau ngày hòa bình 1975, hoạt động khoa học của GS-TS Võ Tòng Xuân, Phó hiệu trưởng Đại học Cần Thơ, chỉ nhằm một hướng: phát triển nông thôn. Ông đã linh động vượt qua nhiều thử thách trong cơ chế bao cấp lúc đó để làm cho được mục tiêu đào tạo kết hợp với nghiên cứu khoa học, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất. Ông tâm sự: 

- Sự giàu có của dân lao động các nước nghèo tài nguyên thiên nhiên mà tôi đã đi qua làm tôi nghĩ đến dân mình - những người chủ nghèo sống trên tài nguyên giàu có. Từ đó tôi đã xác định mục đích sống cho đời mình: phải đem hết tri thức để đóng góp cho đất nước, làm sao cho dân mình mau trở thành những người chủ giàu như dân các nước tiên tiến. Cách cơ bản nhất, theo tôi, là phải đào tạo con người có tri thức và lý tưởng để cùng tham gia phát triển đất nước. 


Giáo sư Võ Tòng Xuân và đại úy Nguyễn Văn Trọng tại Nông trường Động Cát (Quân khu 9) năm 1985 với cây tràm được sạ đại trà trên những cánh đồng phèn.
Ảnh: DAVID CARLING


* Đóng cửa trường ra đồng cứu lúa

Nhớ lại cái thời cả nước thiếu gạo, ĐBSCL bị dịch rầy nâu, Đại học Cần Thơ tạm đóng cửa để ra đồng cứu lúa, ông kể:

- Đó là một quyết định táo bạo. Trong lúc ruộng lúa cao sản của hàng trăm ngàn nông dân bị thiệt hại vì rầy nâu, không còn gạo để ăn mà phải ăn thân cây chuối xắc mỏng, biện pháp hữu hiệu nhất và ít tốn kém nhất là sử dụng giống lúa kháng rầy nâu phủ kín đồng bằng. Cách thực hiện cũng phải phù hợp với thực tế. Chiến thắng của nông dân ĐBSCL đối với con rầy nâu là một kỳ công làm cho các chuyên gia quốc tế đều thán phục. 

Đây là một sự phối hợp lực lượng rất độc đáo. Từ 5 gram hạt giống lúa IR36 gởi trong một bao thơ từ Viện Lúa Quốc tế ở Philippines, tôi và anh Nguyễn Văn Huỳnh đã thanh lọc tính kháng rầy và tiềm năng năng suất của IR36, sau đó nhân ra khoảng 2 tấn lúa giống. Lúc đó giặc rầy nâu khủng khiếp đang đốt cháy hầu hết các cánh đồng lúa cao sản trồng giống lúa cũ TN73-2 và IR26. Hàng trăm ngàn bà con nông dân điêu đứng; nhiều người bán hết cả tủ thờ để đầu tư trừ rầy nâu nhưng vẫn thất bại, phải cột xuồng nối đuôi nhau đi sang các tình Sóc trăng, Bạc liêu, Cà Mau để mua gạo ăn. Tôi đề nghị ban giám hiệu cho đóng cửa trường trong 2 tháng để chúng tôi cho sinh viên đem phổ biến giống lúa mới IR36 kháng rầy để cứu nông dân. Chú Bảy Phạm Sơn Khai, Bí thư Đảng ủy kiêm Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ đã đồng ý cho thực hiện. Hơn 2.000 sinh viên nông nghiệp và sư phạm, sau 2 ngày được huấn luyện cấp tốc 3 phương pháp: sản xuất mạ, chuẩn bị đất cấy, và cấy lúa 1 tép/buội, đã ra quân dưới sự hướng dẫn của cán bộ Khoa Trồng trọt đến tất cả các địa phương đang có rầy nâu xuất hiện. Mỗi sinh viên mang 1 kí lúa giống IR36 để cấy ra 1.000 mét vuông, trái với tập quán của nông dân là phải cần đến 8-10 kí lúa giống. Cán bộ nông nghiệp ở các huyện, xã trong tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Long An, Vĩnh Long và Cần Thơ bố trí cho từng sinh viên đến ruộng của nông dân đang gặp hại để chuẩn bị trồng giống lúa IR36 theo kỹ thuật mới. 

Ba tháng sau, tất cả các ruộng IR36 chuẩn bị được gặt, nông dân phải ra đồng ngủ giữ lúa để không bị ăn cắp giống. Bà con đổi lúa giống cho nhau và tiếp tục nhân giống kiểu 1 tép/buội như sinh viên đã hướng dẫn, và chỉ trong hai vụ lúa, giống mới IR36 đã phủ kín khắp các vùng lúa cao sản, đánh đuổi giặc rầy nâu, chấm dứt thảm họa của nông dân”. 
          
Nhìn lại công cuộc đổi mới về kinh tế của đất nước, giáo sư Xuân nhận xét:

- Cũng con người này, đất nước này, nhờ có thay đổi chính sách một chút là có cải cách, có đổi mới. Từ một đất nước thiếu thốn đủ thứ, phải ăn gạo theo tem phiếu… trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới, dân mình đã khá hơn xưa. Nhưng, đến giờ đại bộ phận nông dân vẫn còn nghèo và thua thiệt. Cái chính của thời hội nhập là Nhà nước mình phải dám thay đổi thêm chính sách, cải cách và đổi mới mạnh hơn thì chúng ta mới có thể thắng được cái nghèo.

* Lấy người học làm trung tâm

Trăn trở về giáo dục, ông nói:

- Sản phẩm giáo dục của nước ta còn nhiều hụt hẫng so với các nước tiên tiến. Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đánh giá rằng hệ thống giáo dục Việt Nam chưa phải là nơi tạo động lực tối hảo cho sự nghiên cứu và phát triển đất nước và chưa làm được nơi ươm mầm cho các tài năng xuất chúng của quốc gia. 

Đổi mới giáo dục sẽ phải bắt đầu từ bậc phổ thông, lần lên đến bậc đại học, trong đó sự đổi mới phương pháp đào tạo tại đại học sư phạm đóng vai trò then chốt. Nhưng rất tiếc là Nhà nước chưa thấy sự cần thiết đó. Và như thế chúng ta sẽ càng làm chậm đi tiến trình đổi mới. Hệ thống đào tạo của Việt Nam hiện nay, từ chương trình đào tạo quá nặng nề - có quá nhiều môn học lý thuyết, nhiều môn học không quan trọng cho ngành chuyên môn, gấp đôi thời gian lên lớp so với sinh viên các nước khác, đến cách dạy chủ yếu vẫn là đọc – chép, vì dạy theo kiểu mới như “lấy người học làm trung tâm” sẽ bị cháy giáo án, cho nên không phát huy được tính sáng tạo, suy nghĩ độc lập của người học. Trong khi đó, nhất là đối với những sinh viên xuất sắc, nhu cầu học cấp bách những kỹ năng cao cấp ngày càng tăng, nhưng bị hệ thống giáo dục kìm hãm, không phát huy được. Mọi sinh viên phải chờ nhau cùng đi lên chầm chậm, người muốn đi nhanh không có cách gì để đi trước được. Trong khi đó, hệ thống giáo dục ở các nước chung quanh Việt Nam đều đã chuyển từ lâu. 
              
Còn đây là tâm sự của giáo sư Võ Tòng Xuân với thanh niên: 

- Thanh niên ngày nay có thể bị mất phương hướng phấn đấu khi thấy những biểu hiện xã hội hiện nay. Nhiều em phân vân tự hỏi mình phấn đấu học giỏi làm gì khi tiềm năng đất nước rất giàu đẹp, hàng bao nhiêu người không cần học hành gì mà vẫn làm giàu nhờ biết cách sử dụng của cải của người khác? Nói thế chứ chúng ta không thể bắt chước người vi phạm mà cũng vượt đèn đỏ khi đến nút giao thông. Thanh niên chúng ta không nên buông trôi theo cách sống “chụp giựt” mà cần nên là một cá nhân kiểu mẫu để góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, tri thức thông thái trong tương lai. Phải có ước mơ là mình sẽ làm gì để góp phần xây dựng xã hội ấy, phải thích cái ước mơ ấy, tức là phải có cái tâm với nó. 

Để thực hiện, trước nhất và cơ bản nhất là phải học thật và học giỏi, không học tắt để lên lớp hoặc để lấy bằng cấp. Trong mọi hoàn cảnh, nhất là những lúc khó khăn, càng phải có nghị lực vượt khó, luôn tìm cơ hội để phát huy trong mọi hoàn cảnh, không để mình bị trói buộc bởi những trở ngại. Như thế thì thanh niên sẽ có tri thức và kỹ năng, từ đó mới có nhiều sáng kiến thực hiện ước mơ của mình. Nhưng thế chưa đủ. Có tâm và trí rồi, thanh niên phải dũng cảm tìm cách thực hiện những sáng kiến của chính mình để làm giàu và đồng thời tạo của cải giúp ích xã hội. Trong quá trình thực hiện ý tưởng ước mơ, thanh niên còn phải trong sạch, liêm chính, không tráo trở, gạt gẫm và tham nhũng với bất cứ ai. Tóm lại, người thanh niên mới của thời đại phải có “tâm, trí, dũng, liêm.”    


♥ Mời đọc thêm tại báo Thanh Niên:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121107/gs-ts-vo-tong-xuan-phai-cai-cach-va-doi-moi-manh-hon.aspx

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012

Dân khúc buồn



Khúc ca dao / Hát một mình / Ta ru ta / Cả mảnh thinh không buồn / Tạ tình người / Đoạn thơ suông / Cứa lòng nhau / Gió lạnh suồng sã cây. Tự tình với bài thơ Dân khúc bằng hai khổ lục-bát-rơi ấy, nhà thơ Vĩnh An như muốn chạm vào cái điệu buồn sinh tử của một câu Kiều: Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 




Không dưng mà anh để dành bài Những chuyện bình thường vào cuối tập thơ với những câu sầu não như vầy: Đi qua năm tháng nước lã khí trời / Gạo chợ nước sông cùng cực / Mùi tiền đăng quang làm chuẩn mực /…Gọi em lột dùm xác ve sầu. Trước đó, trong bài Thú nhận, anh viết: Nơi cánh đồng tận cùng cuống rạ /… Em treo tôi trên sợi tơ óng ả / Không thể đứng yên / Không thể lao về phía gió /… Đêm muộn màng / Tôi gọi khẽ và rơi.

Dân khúc còn có nhiều bài lục bát buồn hiu “những điều trông thấy” kiểu như vậy. Trong bài Gởi một buổi chiều: Bỗng dưng chiều ngã vào đêm / Người dưng vuột miệng hẹn tìm người dưng. Trong bài Trời mưa tháng sáu: Yêu đời đi dọc cơn mưa / Trắng tay từ độ mới vừa xa em. Hay trong bài Những người thương phải xa nhau: Những người thương phải xa nhau / Nên ngàn sóng cứ xô vào đá xanh / Yêu hoài dẫu rất mỏng manh / Lúc gần gũi, lúc đã thành người dưng. Để rồi: Chợt gần mà cũng chợt xa / Chẳng còn em, chẳng còn ta, chẳng còn (Vét tình).

Và khi quay trở về nhà, theo vợ đi chùa lễ Phật, người đàn ông nhìn lại mình: Đã hai màu tóc trên đầu / Chợt vụng dại với mấy câu nguyện thầm / …Cắm nhang xong nắm bàn tay / Nghe nhoi nhói mấy vết chai đàn bà (Theo em lễ Phật đầu năm).


Trong tập Dân khúc của nhà thơ Vĩnh An (hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Trà Vinh), còn có một chùm thơ hai-ku 4 bài. Đọc hai bài này, tôi hiểu được lòng tác giả: Làm giáo chức nửa đời / Cha làm thày con đi bán sách / Cha phủi bụi thơ con (Cha); Những nỗi đau người khác / Ám ảnh cuộc sống và giấc mơ / Thì ra của chính mình (Thi sĩ)   


♥ Mời đọc thêm tại báo Thanh Niên:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121106/dan-khuc-buon.aspx