Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Ai ơi bưng bát cơm đầy…



Từ hàng nghìn năm qua và hàng nghìn năm tới, chắc chắn hạt gạo vẫn là nguồn lương thực ổn định trong thực đơn của người Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà từ xưa tới giờ, người Việt Nam gọi bữa ăn là bữa cơm. Hằng triệu người dân các nước khác, chắc hẳn cũng vẫn cần có cơm gạo dài lâu.

Với đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đến cuối thế kỷ thứ 20, vùng này đã trở thành nơi giữ vai trò chính bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước và giúp Việt Nam thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới. Năm 2011, dù bị lũ lụt nặng, ĐBSCL đã làm ra trên 51% trong hơn 41 triệu tấn lúa của cả nước và chế biến xuất khẩu được hơn 90% trong số hơn 7 triệu tấn gạo xuất khẩu của cả nước. Tới tháng 11-2012, xuất khẩu gạo của nước ta đang dẫn đầu thế giới và có thể xuất được 7,7 triệu tấn vào cuối nay năm, theo VFA.

Nhưng rồi câu chuyện sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL trong tương lai sẽ ra sao khi mà vùng châu thổ này đang và sẽ là một trong những nơi chịu ảnh hưởng nặng nhất về biến đổi khí hậu của trái đất? 

Đọc cuốn sách “Sản xuất lúa và tác động của biến đổi khí hậu ở ĐBSCL” (do NXB Tổng hợp TP.HCM và Thời báo Kinh tế Sài Gòn ấn hành, tháng 10-2012), có thể giúp ta tìm được câu trả lời. 



Sách do hai nhà giáo và cũng là nhà khoa học đang làm việc tại trường Đại học Cần Thơ - PGS.TS Nguyễn Ngọc Đệ và TS Lê Anh Tuấn - biên soạn. PGS.TS Nguyễn Ngọc Đệ giới thiệu tổng quan về sản xuất lúa, tài nguyên giống lúa, các mô hình canh tác lúa và về vai trò của nông dân trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. TS Lê Anh Tuấn giới thiệu về điều kiện tự nhiên vùng ĐBSCL, bức tranh chung về biến đổi khí hậu, tác động của biến đổi khí hậu và việc thích nghi với biến đổi khí hậu trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Trong chương cuối, hai tác giả cùng đưa ra nhận định về tương lai của câu chuyện sản xuất lúa ở ĐBSCL trong thời biến đổi khí hậu toàn cầu. 

Cuốn sách như một cẩm nang kiến thức phổ thông về sản xuất lúa và biến đổi khí hậu ở ĐBSCL, rất cần cho những ai quan tâm tới đề tài này.

Đọc xong cuốn sách, chợt nhớ tới câu ca dao: 

Ai ơi bưng bát cơm đầy 
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Từ bao đời nay, câu ca dao ấy nhắc ta nhớ tới công lao làm ra hạt gạo của bao người, mà trực tiếp là của nhà nông. Và phải chăng, câu ca dao ấy cũng ẩn chứa nỗi lo về mùa màng lúa gạo khi mà ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trên trái đất sẽ chẳng chừa một ai, nếu ta không lường trước được bao điều “cay đắng”? 

♥ Mời đọc thêm tại báo Thanh Niên ra ngày 13-11-2012

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Mía đường – nhìn từ một hội thảo quốc tế




Trở về từ hội thảo quốc tế tại Ấn Độ “Những lĩnh vực mới trong nghiên cứu cây mía” (15 đến 18-10), GS-TS Võ Tòng Xuân, hiệu trưởng trường Đại học Tân Tạo, cho biết: “Đây là dịp để nắm được toàn bộ khung cảnh nghiên cứu khoa học về cây mía, qua đó chúng tôi thấy rất rõ trình độ cây mía của Việt Nam còn thua xa các nước khác trên thế giới”.

Tại hội thảo này, Tiến sĩ S.K. Dutta, Phó Tổng giám đốc Hội đồng Nghiên cứu khoa học nông nghiệp Ấn Độ (ICAR) cho biết, mặc dù số nhà máy đường đã tăng từ 30 (năm 1930) lên 560 (năm 2012), nhiều địa phương trong nước vẫn cần thêm nhà máy đường. Tiến sĩ N. Vijayan Nair, Viện trưởng Viện Chọn tạo giống mía (SBI) của Ấn Độ cho biết trong 100 năm qua, viện đã cho ra đời khoảng 2.500 giống mía. SBI cũng đã nghiên cứu đặc tính di truyền của giống mía từ thập kỷ 1990 và đang nghiên cứu công nghệ biến đổi gen mía. Tiến sĩ Nair lưu ý các quốc gia sản xuất đường sẽ đối đầu với thách thức lớn trong tương lai. Đó là nhu cầu tiêu thụ đường ăn sẽ tăng 50% trong năm 2030 nên rất cần có giải pháp khoa học công nghệ thích hợp. Ông cũng nói, biến đổi khí hậu sẽ tác động xấu đến sản lượng mía bất kỳ ở vùng trồng mía nào trên trái đất. Các chuyên gia khí hậu dự đoán sản lượng mía sẽ giảm 20% mỗi khi nhiệt độ bình quân tăng 1 độ C.

Phía sau đoàn là bụi cỏ Erianthus arundinaceus đối tượng đang được dùng lai tạo với mía trồng để chọn ra những giống mía có giá trị cao hơn mía trồng hiện nay.
(Ảnh & chú thích: GS Võ Tòng Xuân)


Bên lề hội thảo, giáo sư Võ Tòng Xuân còn gặp riêng nhiều đoàn để tìm hiểu thêm kinh nghiệm sản xuất mía đường. 

Brazil (đang dẫn đầu thế giới về sản xuất mía đường), có Mạng lưới Nghiên cứu giống mía Brazil (RIDESA) gồm 10 trường đại học liên bang. 20 năm qua, RIDESA tạo được 59 giống mía cao sản, (chiếm 59% giống mía ở Brazil). Năm 2011, RIDESA có thêm 2 giống mía chịu khô hạn và kháng bệnh rĩ sắt. Ngoài RIDESA, Brazil còn có Trung tâm Kỹ thuật cây mía (CTC) và Viện Nông học Campinas (IAC). CTC đang giữ bộ sưu tập giống mía lớn nhất của Brazil, cung cấp miễn phí những gen mía cho bất cứ nhà khoa học nào. Năm 2011, CTC cho ra đời thêm 2 giống mía chịu hạn. CTC cũng đang thử nghiệm tạo giống mía được biến đổi gen để tạo giống mía chịu hạn tốt. Viện IAC đang chọn tạo giống mía chịu hạn và chịu ngập để đối phó với tình huống biến đổi khí hậu. Vài con số về vụ mía 2011-2012 tại Brazil: Năm 2010 có 330 nhà máy đường; sản lượng mía 631 triệu tấn (tăng 2% so năm 2011) / 9,65 triệu ha (tăng 8% so năm 2010) - 46,6% dành sản xuất đường, 53,4% làm rượu ethanol; sản lượng đường 39,6 triệu tấn (tăng 1,45 triệu tấn so năm 2010); năng suất mía bình quân 71 tấn/ha; lượng đường thu hồi là 140,23 kg/tấn mía; xuất khẩu 27,3 triệu tấn đường.  

Úc (nước đang cung cấp đường thứ 3 thế giới) đã xuất khẩu 2,8 triệu tấn đường vụ mùa 2011-2012 nhờ sản lượng 4,5-5 triệu tấn đường làm từ 32-35 triệu tấn mía (366.000 ha). Chữ đường của Úc đạt từ 13,9% đến 14,5%. Vụ mùa 2012-2013 Úc đã xuống giống 380.000 ha, tăng 14.000 ha. Nghiên cứu về mía đường để phục vụ cho nông dân chủ yếu do Công ty BSES (tư nhân, do hệ thống các nhà máy đường và nông dân lập ra) và Tổ chức CSIRO (nhà nước) lo. Úc hiện có 4.000 nông trại mía và 24 nhà máy đường. Phần lớn nông trại làm khoảng 100 ha, nhiều nông trại làm tới 1.000 ha. Nông trại Úc áp dụng hầu hết cơ giới trong trồng trọt và thu hoạch; nhưng lao động ngành trồng mía có khoảng 6.000 người.

Thái Lan, vụ mùa 2011-2012, nông dân trồng 1,4 triệu ha mía, sản lượng 100-105 triệu tấn mía, năng suất bình quân 77,3 tấn/ha. Với tỉ lệ thu hồi 104,3 kg đường/tấn mía, tổng sản lượng đường Thái Lan lên đến 11 triệu tấn; đã xuất khẩu 9 triệu tấn, đứng hàng thứ 2 thế giới. Lượng tiêu thụ đường bình quân đầu người của Thái Lan (40 kg/người) xếp thứ 3 thế giới. Thái Lan phát triển giống mía bắt đầu từ Trung tâm Suphanburi ở U Thong; tiếp đó là trường Đại học Nông nghiệp Kasetsart chi nhánh ở Kamphaeng Saen (vùng mía miền Bắc) và Kanchanaburi (vùng mía miền Trung), Khoa Nông nghiệp trường Đại học Khon Kaen, Khoa Nông nghiệp trường Đại học Chiang Mai, và một số trung tâm vùng của Bộ Nông nghiệp. Hàng năm, Bộ Nông nghiệp Thái Lan tổ chức thí nghiệm cấp quốc gia “Đánh giá giống mía triển vọng từng vùng trồng mía” để các nhà máy đường áp dụng. Thái Lan hiện có 47 nhà máy đường; dự kiến sang vụ 2012-2013 sẽ có thêm 4 nhà máy nữa và đến 2017-201 sẽ có 60 nhà máy.

Khi ngành đường phát triển mạnh ở Thái Lan, nhu cầu giống mía bức xúc, riêng Công ty Mitr Phol đã xây Trung tâm Đổi mới và nghiên cứu cây mía Mitr Phol từ năm 1997 để phục vụ khoa học nông nghiệp cho 5 nhà máy đường của mình. Tiến sĩ R. Saravanan, khoa học gia cao cấp của Công ty Mitr Phol, cho biết trung tâm này phục vụ cho 20.000 nông hộ trồng 300.000 ha mía. Trung tâm có 60 chuyên viên lo từ việc sưu tập giống, chọn cây bố mẹ để lai tạo, chọn giống tại các vùng mía, nhất là nghiên cứu các biện pháp nông học để tăng năng suất mía và chữ đường, bảo đảm sản xuất của công ty đồng thời nâng cao lợi tức của dân trồng mía. Những giống mía của Mitr Phol tạo ra có tên bắt đầu bằng chữ MP. Công ty Đường Mitr Phol đang sản xuất 2,8 triệu tấn đường/năm (thứ 5 thế giới) đồng thời sản xuất ra 162 MWh điện cùng 800 triệu lit ethanol.

Còn ở châu Phi thì Nam Phi là nước sản xuất đường lớn nhất với một tổ chức rất căn cơ. Chính phủ Nam Phi đã thành lập Viện Nghiên cứu Mía Nam Phi (SASRI) từ năm 1925. Đến năm 2012, Viện SASRI đã phổ biến 53 giống mía, trong đó 45 giống do viện lai tạo, 8 giống nhập từ Ấn Độ và một số nơi khác. Hiện nay Nam Phi có 23.130 nông dân trồng mía trên tổng diện tích 400.000 ha, sản xuất được 19 triệu tấn mía và 2,7 triệu tấn đường từ 13 nhà máy đường.

***

Nhìn lại mình, giáo sư Võ Tòng Xuân nhấn mạnh: “Việt Nam không có gì đóng góp khoa học cho ngành sản xuất mía thế giới. Khi phát triển ngành mía đường trên các địa bàn trong nước thì chúng ta không có đủ dữ kiện khoa học cụ thể của từng vùng trồng mía để giúp cho nông dân trồng mía sản xuất có lợi cao”.

Theo giáo sư Xuân, đoàn Việt Nam đã thấy được những khiếm khuyết về mặt khoa học, từ lai tạo, chọn giống cho từng vùng trồng mía khác nhau, đến các kỹ thuật quản lý đồng ruộng bảo đảm cây mía có năng suất cao và chữ đường cao. Giai đoạn cạnh tranh mãnh liệt sẽ đến khi cam kết trong WTO sẽ cho nhập khẩu tự do đường từ các nước, nhất là Thái Lan.

Giáo sư Võ Tòng Xuân đề nghị: “Nhà nước cũng như các công ty đường của Việt Nam cần đầu tư kinh phí để thiết lập các chương trình nghiên cứu cây mía Việt Nam từ các viện, trường đại học sẵn có tại các vùng sinh thái, và cần thiết lập Viện Nghiên cứu Mía có đầu tư đích đáng, đồng thời cần cải tiến công cuộc đào tạo cán bộ ngành mía đường”.