Huỳnh Kim
- Trung Chánh
|
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu kết luận hội nghị về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu tại Cần Thơ chiều tối 27-9. Ảnh: Trung Chánh |
(TBKTSG Online) - Kết thúc hai ngày Hội nghị về phát
triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu
(BĐKH) tại Cần Thơ, chiều tối 27-9, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu
kết luận, nhấn mạnh ĐBSCL cần phát triển “thuận thiên”.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
nêu rõ ba quan điểm phát triển ĐBSCL của Chính phủ tới năm 2050.
Một là kiến tạo phát triển
bền vững, thịnh vượng trên cơ sở chủ động thích ứng, chuyển hóa được những
thách thức, biến thách thức thành cơ hội, bảo đảm được cuộc sống ổn định và khá
giả của người dân cũng như bảo tồn được những giá trị văn hóa truyền thống của
ĐBSCL.
Hai là thay đổi tư duy phát
triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa
sang tư duy kinh tế nông nghiệp từ số lượng sang chất lượng gắn với chuỗi giá
trị; từ sản xuất hóa học sang nông nghiệp hữu cơ và công nghệ cao; chú trọng
công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông
nghiệp. Lương thực không phải là chống đói mà phải là lương thực phòng chữa
bệnh với những thương hiệu nổi tiếng.
Ba là tôn trọng quy luật tự
nhiên, chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thuận thiên là chính, tránh can
thiệp thô bạo vào tự nhiên. Phát triển bền vững theo phương châm chủ động sống
chung với lũ, với hạn, mặn, thiếu nước, phù hợp với điều kiện thực tế. Quá
trình đó phải có sự tham gia của các bên liên quan, đảm bảo sự gắn kết hữu cơ
trong nội vùng cũng như liên kết chặt chẽ với phát triển Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và Tiểu vùng sông Mê Công.
Thủ tướng nói: “Phải giữ
được đất, nước và con người thì mới thích ứng với thiên nhiên ĐBSCL. Nơi này
không chỉ là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam mà còn là nền nông nghiệp thông minh
bền vững có giá trị giá tăng cao ở khu vực và ở châu Á trong tương lai”.
Theo Thủ tướng, chiến lược
phát triển ĐBSCL là lấy con người làm trung tâm, chú trọng về chất lượng hơn số
lượng; tiếp cận chủ động, linh hoạt trong bối cảnh tác động của biến đổi khí
hậu (BĐKH) với việc khai thác sử dụng nguồn nước trên thượng nguồn sông Mê Công
và các điều kiện tự nhiên khác.
Xác định BĐKH và nước biển
dâng là xu thế tất yếu, Thủ tướng nói: “Phải sống chung và thích nghi; biến
thách thức thành cơ hội. Phải coi nước lợ, nước mặn cũng là một nguồn lực của
tài nguyên bên cạnh nguồn tài nguyên nước ngọt. Phải tăng cường quản lý tài
nguyên nước, đất đai và các tài nguyên khác trong vùng. Chú trọng phát triển
vùng duyên hải, vùng đặc quyền kinh tế và vị trí địa chính trị của đồng bằng;
áp dụng công nghệ mới để thuyết phục nhân tai và đối phó với thiên tai”.
Việc chuyển đổi mô hình
phát triển phải bảo đảm hài hòa với điều kiện tự nhiên về đất, về nước, về đa
dạng sinh học và văn hóa và tri thức bản địa phù hợp với quy luật tự nhiên, chú
trọng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ. Chú trọng liên kết phát triển
trong vùng và giữa ĐBSCL với TPHCM, miền Đông Nam bộ, giữa Việt Nam và các
nước, trước hết là các nước tiểu vùng sông Mê Công.
Mọi hoạt động đầu tư phải
liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm; trong đó ưu tiên cho các công trình cấp
bách trước mắt có tính chất “không hối tiếc”. “Phải chú trọng chủ yếu là giải
pháp phi công trình như các nhà khoa học đã nêu chứ không phải cứ làm những con
đê dài là được”, Thủ tướng nói.
Giải pháp hàng đầu, Thủ
tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải làm xong quy hoạch phát triển bền vững
ĐBSCL thích ứng với BĐKH. “Quy hoạch mới phải làm từ sống chung với lũ sang chủ
động sống chung với lũ, mặn, ngập; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả cao nguồn nước
ngọt, nước lợ, nước mặn. Quy hoạch phát triển ĐBSCL phải làm cả cho vùng nước
biển xa bờ. Mọi dự án chương trình phải tính toán được - mất trên cả ba mặt
kinh tế, xã hội và môi trường”, Thủ tướng nói.
Riêng với nông nghiệp, Thủ
tướng yêu cầu phải chọn cây trồng ít sử dụng nước và không tiếp tục gia tăng
diện tích trồng lúa nhiều như hiện nay. Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ĐBSCL
theo hướng liên vùng, sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả, bền vững, cạnh tranh
cao, đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu.
“Dứt khoát giảm diện tích
lúa ba vụ, không chọn cây trồng sử dụng nước nhiều nhưng giá trị thương mại rất
thấp. Và phải có doanh nghiệp tham gia từ đầu vào quá trình này”, Thủ tướng
nhấn mạnh.
Trong phiên họp buổi sáng
27-9 tại hội nghị này, một số đại biểu quốc tế đã nhấn mạnh về tầm quan
trọng của việc quản lý ĐBSCL thích ứng với BĐKH và sự hợp tác với Việt
Nam.
Đại sứ Cộng hòa Liên
bang Đức tại Việt Nam, Christian Berger, khẳng định vì sự phát triển
của ĐBSCL, Chính phủ Đức sẽ hợp tác chặt chẽ với Việt Nam để giải
quyết những thách thức từ BĐKH, nhất là trong tái cơ cấu sản xuất nông
nghiệp; thực hiện các dự án chống sạt lở, sụt lún; thu hút đầu tư,
quản lý hiệu quả nguồn nước; huy động, sử dụng nguồn lực tài chính
hiệu quả. Ông cũng đồng tình với việc thành lập Hội đồng phát triển
vùng để điều phối chung sự hợp tác này.
Ông Ousmane Dione, Giám
đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, đề nghị phải có sự hợp tác chặt
chẽ giữa trung ương và địa phương, giữa chính quyền với khu vực tư nhân
để đáp ứng linh hoạt với thực tế và tìm được giải pháp thu hút, phân
bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ này, kể cả việc
xây dựng quỹ phát triển ĐBSCL.
Bà Louise Chamberlain, Giám
đốc quốc gia Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tại Việt Nam, kiến
nghị đẩy mạnh hợp tác liên chính phủ; xây dựng cách tiếp cận tổng
thể và chiến lược, tránh trùng lặp chính sách; có cách tiếp cận về
tài chính phù hợp giữa công và tư; huy động mạnh hơn các nguồn vốn
nước ngoài và tư nhân; đẩy mạnh chia sẻ thông tin; xây dựng mô hình
thích ứng rủi ro; sử dụng hiệu quả nguồn nước ngầm; ngăn chặn hạn
hán, xâm nhập mặn; phát huy được các tiềm năng, lợi thế so sánh của
vùng; chú trọng tới nhóm người dễ bị tổn thương.
Ông Phạm Tuấn Phan, Giám
đốc điều hành Ủy hội sông Mê Công, nhấn mạnh các giải pháp sử dụng
hiệu quả lâu dài tài nguyên nước; thực hiện Hiệp định sông Mê Công về
phân phối, chia sẻ nguồn nước; điều chỉnh phát triển ĐBSCL phù hợp
với sự phát triển của lưu vực; sử dụng hiệu quả các sáng kiến của
Ủy hội về phát triển bền vững sông Mê Kông.
Những tác động đến ĐBSCL
Báo cáo kết quả tổng kết
của phiên thảo luận tại hội nghị toàn thể “Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng
biến đổi khí hậu” dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc diễn ra hôm
27-9 tại thành phố Cần Thơ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà
cho biết, khu vực ĐBSCL đang chịu tác động tổng hợp giữa các nhân tố “đất, nước
và con người” ở quy mô toàn cầu, khu vực và cả địa phương. Điều này, đang tạo
ra các xu hướng chuyển đổi lớn, có ảnh hưởng toàn diện và sâu rộng đến toàn bộ
hệ thống tự nhiên, môi trường, đa dạng sinh học và cả kinh tế, sinh kế của
người dân.
Theo ông Hà, tổng dòng chảy
vào ĐBSCL có xu hướng giảm với trung bình mỗi năm khoảng 1,87 tỉ m3 (tương
đương khoảng 120 m3/giây), gây sụt giảm lượng nước trữ trong mùa khô. Ngoài ra,
tổng lượng lũ giảm và thời gian lũ có thể kéo dài hơn khiến nhiều nơi sẽ không
có lũ hoặc có nhưng không đáng kể.
Dưới tác động của các đập
thủy điện ở thượng nguồn, dự báo sẽ dẫn đến tài nguyên nước ngọt giảm, nước
mặn, lợ tăng. Đặc biệt, tổng lượng trầm tích về ĐBSCL có thể giảm đến 70-90%
của tổng lượng trầm tích được chuyển về ĐBSCL hàng năm là 160 triệu tấn khi tất
cả các đập thủy điện được xây dựng.
Các vấn đề sụt lún đất, mất
rừng ngập mặn, xói lở bở biển, bờ sông cũng được Bộ Tài nguyên và Môi trường dự
báo sẽ gia tăng. Song song đó, kinh tế, sinh kế dựa vào hệ sinh thái nước ngọt
giảm và nước mặn tăng lên, dẫn đến di cư ra khỏi ĐBSCL tăng.
Ngoài ra, theo ông Hà, suy
thoái đa dạng sinh học sẽ có xu hướng tăng mà cụ thể là các vùng đất ngập nước
tự nhiên bị thu hẹp nhanh về diện tích. Trong khi đó, đất nhiễm phèn thời gian
tới sẽ tăng mạnh và dự báo xảy ra ở những khu vực thuộc các tỉnh Sóc Trăng,
Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang và Trà Vinh do bản chất đất ở các khu vực này có
chứa các vật liệu sinh phèn dưới tác động của quá trình canh tác nông nghiệp.
Tại phiên thảo luận, Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, những tác động tiêu cực như
trên có tính chất liên ngành, vượt qua phạm vi ranh giới hành chính của một địa
phương. “Tuy nhiên, các chương trình, dự án, quy hoạch, kế hoạch và giải pháp
đã, đang được thực hiện lại theo góc nhìn riêng lẻ của từng bộ, ngành, địa
phương…, không dựa trên xem xét tổng thể về không gian, thời gian, liên ngành,
liên vùng”, ông cho biết.
Dẫn chứng cho điều này,
theo ông Dũng, khu vực ĐBSCL hiện có đến 2.500 quy hoạch độc lập, trong đó quy
hoạch cấp vùng có đến 22 bản quy hoạch.
Ông Dũng nói rằng, việc lập quy hoạch riêng
lẻ nhiều, nhưng thiếu tầm nhìn, không gắn với khả năng cân đối nguồn lực sẽ dẫn
đến thiếu tính khả thi khi thực hiện, thậm chí cản trở việc đầu tư, sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp, người dân, gây lãng phí cơ hội và nguồn lực
của đất nước.
Vì vậy, để đảm bảo cho phát triển bền vững
của ĐBSCL, thích ứng biến đổi khí hậu, ông Dũng nhấn mạnh: “Phải xử lý vấn đề
một cách tổng thể dựa trên quy hoạch vùng theo hướng tích hợp”.
Trước đó, trong phiên thảo luận diễn ra hôm
26-9, ông Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đề
xuất khu vực ĐBSCL nên hướng tới quy hoạch tích hợp, thay vì là quy hoạch riêng
lẻ như hiện nay. Theo ông, việc tiến tới quy hoạch tích hợp sẽ giúp ĐBSCL ứng
phó tốt hơn với biến đối khí hậu và đây cũng được xem là một giải pháp giúp
vùng huy động nguồn lực thực hiện hiệu quả hơn.
ĐBSCL dễ bị tổn thương
Báo cáo kết quả, ông Nguyễn Xuân Cường, Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, sau 30 năm đổi mới,
ĐBSCL từ vùng nông nghiệp đơn gian đã hình được một trung tâm nông nghiệp lớn
trong cả nước. “Đây là vùng trọng điểm tạo ra các sản phẩm xuất khẩu, có đóng
góp chung cho kim ngạch toàn ngành nông nghiệp đến nay đạt khoảng 32 tỉ đô la
Mỹ”, ông cho biết.
Tuy nhiên, theo nhìn nhận của ông Cường, hiện
ĐBSCL lại đối mặt với nhiều thách thức do biến đổi khí hậu gây nên. “Ở Việt Nam
nói chung và ĐBSCL nói riêng với địa hình thấp và trong bối cảnh biến đổi khí
hậu như vậy sẽ là một trong những nơi bị tổn thương lớn nhất ở nước ta”, ông
cho biết.
Ông Cường cho rằng những vấn đề nêu trên có
tác động trực tiếp đến sinh kế và mọi mặt đời sống xã hội, trong đó, lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn và nông dân sẽ bị tổn thương lớn nhất.
“Bởi vì sao?”, ông Cường nêu câu hỏi và giải
thích do 80% dân cư hiện sống ở khu vục nông thôn và 36% tổng sản phẩm nội địa
(GDP) là từ khu vực nông nghiệp. “Do đó, đây là khu vực sẽ bị tổn thương đầu
tiên”, ông nhấn mạnh.
Theo ông Cường, trong bối cảnh như vậy, nếu
các bên liên quan không có hành động tích cực và thống nhất với nhau, vùng này
sẽ không còn là vùng trù phú về nông nghiệp, dẫn đến sinh kế của nông dân bị
ảnh hưởng, kinh tế phát triển chậm lại. “Thậm chí, các hình thái biên giới như
ở Cà Mau cũng sẽ khác đi vì sạt lở”, ông nói.
Tuy nhiên, ông Cường nói rằng ông có niềm tin
rất lớn là ĐBSCL sẽ ứng phó được và vùng này tiếp tục trở thành vùng trù phú về
nông nghiệp.
Theo dẫn chứng của ông Cường, một số quốc gia
trên thế giới đã chứng minh được điều ông đã đặt niềm tin. Chẳng hạn, Israel là
quốc gia mưa ít và mặn nhiều, nhưng họ vẫn xây dựng được nền nông nghiệp hiện
đại. “Hà Lan có 4 triệu héc ta đất tự nhiên, trong đó, có 2/3 diện tích thấp
hơn mực nước biển, nhưng bằng chương trình hành động tổng thể, phù hợp họ vẫn
có được nền nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, đưa xuất khẩu đến 120 tỉ
đô la Mỹ”, ông cho biết.
Tại hội nghị, ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đồng Tháp đã
nêu ra năm đề xuất giúp ĐBSCL phát triển thời gian tới.
Vấn đề đầu tiên được ông Hoan nêu ra là Chính phủ cần có những
chính sách đồng bộ hỗ trợ hình thành các mô hình chuỗi giá trị ngành hàng, thay
vì chỉ hỗ trợ đầu vào là người sản xuất. Nói cách khác, sự phát triển bền vững
không còn dựa vào tăng sản lượng, mà phải dựa vào việc hình thành các chuỗi giá
trị ngành hàng, lấy chi phí và chất lượng quyết định cạnh tranh. Gắn kết sản
xuất với công nghệ bảo quản, chế biến, dịch vụ logistics, thương mại điện tử.
"Từ
đó, hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp và các doanh nghiệp nông nghiệp
biết tiếp cận nền nông nghiệp thông minh, ứng dụng các tiến bộ của khoa học
công nghệ, công nghệ thông tin để tăng giá trị vào từng công đoạn của chuỗi giá
tri, tiếp cận các phương pháp quản trị để xây dựng chiến lược phát triển", ông cho biết.
Thứ hai là Chính phủ cần xác định rõ hơn về tầm quan trọng, sống
còn của kinh tế hợp tác trong tái cơ cấu nông nghiệp vùng ĐBSCL. Nếu không có
kinh tế hợp tác sẽ không giảm được chi phí sản xuất, không nâng cao chất lượng,
độ đồng đều nông sản và sẽ khó có thể hình thành chuỗi giá trị. Không có kinh
tế hợp tác, mối liên kết giữa sản xuất - tiêu thụ sẽ không bền vững và sẽ không
triển khai được các mô hình nông nghiệp thông minh, ứng dụng khoa học công
nghệ. "Kinh tế hợp tác cũng là cấp chủ động thích ứng với tác động của
biến đổi khí hậu ngay trên từng cánh đồng", ông nói.
Thứ ba, ngoài vấn đề liên kết các tiểu vùng, Chính phủ cần định
hướng và hỗ trợ thành lập các hiệp hội ngành hàng cấp vùng. Các hiệp hội này
hoạt động theo thiết chế "tổ chức đa chức năng", có sự tham gia giữa
các cơ quan của Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp, khu vực tư và
đại diện nông dân.
Thứ tư, trong tiến trình thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp sẽ có
những xung đột nhất định về thể chế và các quy định của pháp luật. Vì vậy, ông
Hoan đề nghị Chính phủ cho các địa phương mạnh dạn thí điểm sắp xếp các tổ chức
thuộc ngành nông nghiệp của địa phương theo hướng chuyển từ "hỗ trợ kỹ
thuật sản xuất sang hỗ trợ hình thành chuỗi giá trị và các hoạt động hỗ trợ
năng lực thích ứng với kinh tế thị trường cho nông dân".
Cuối
cùng, tư duy chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần sớm điều chỉnh quy hoạch giảm
diện tích đất trồng lúa. Đồng thời, Chính phủ cần ưu tiên các nguồn vốn ODA,
các nguồn tài trợ quốc tế để đầu tư công cho các chương trình, dự án xây dựng
kết cấu hạ tầng, tư vấn hỗ trợ kỹ thuật phục vụ sản xuất, sinh kế của người dân
để thích ứng với những thách thức về biến đổi khí hậu.
* Đã đăng TBKTSG Online 27-9-2017:
* Và tại Saigon Times Daily 28-9-2017: