Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Phản biện MDS




Đắp đê cứu lúa trong mùa lũ ở An Giang.



(TBKTSG) - Báo cáo Nghiên cứu tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mêkông (MDS)* hiện đang chờ được Chính phủ thông qua.

Tuy nhiên, tại hội thảo khoa học “Tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mêkông” do Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ) và Trung tâm Phát triển sáng tạo xanh - GreenID tổ chức vào cuối tuần qua, nhiều chuyên gia đã phân tích về tính thiếu thực tiễn của báo cáo này.


Thiếu biển, thiếu con người




TS. Dương Văn Ni, Trưởng bộ môn Quản lý môi trường - khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Đại học Cần Thơ), nêu rõ quan điểm vì sao ông tham gia phản biện MDS: “Việc các nước ở thượng nguồn sông Mêkông xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính có thể ảnh hưởng đến vùng châu thổ sông Mêkông bao gồm ĐBSCL. Nhận thức rõ điều này nên Chính phủ Việt Nam đã đặt hàng cho tổ chức tư vấn quốc tế DHI thực hiện nghiên cứu này. Vì vậy, một khi kết quả của báo cáo MDS được Chính phủ Việt Nam thông qua, nó có ý nghĩa khoa học và pháp lý và cũng như ý nghĩa đây là quan điểm chính thức của Chính phủ Việt Nam về các đập thủy điện đối với các quốc gia trong lưu vực sông Mêkông và trên thế giới”.

Phản biện về mảng đa dạng sinh học trong MDS, ông Ni cho biết khi chọn khu vực địa lý để nghiên cứu, các tác giả chỉ chọn vùng ngập lụt. Trong khi mặc dù không ngập lụt hàng năm nhưng các vùng khác của ĐBSCL lại có tác động trao đổi vì cùng hệ sinh thái. “Nghiêm trọng hơn là tác giả báo cáo loại bỏ phần diện tích biển tiếp giáp đất liền, đây là phần hoàn toàn thuộc hệ sinh thái ĐBSCL. Vì hàng năm nước biển xâm nhập đất liền trong mùa nắng và nước sông mang nước ngọt và phù sa ra biển vào mùa khô. Ở vùng này, sự trao đổi vật chất xảy ra nhiều hơn vùng ngập lụt theo mùa”, ông Ni phân tích.

Về việc MDS chọn nhóm loài để đánh giá tác động đối với đa dạng sinh học, ông Ni cũng cho là “chưa chính xác vì các loài này không đại diện cho sự phong phú của đa dạng sinh học vùng ĐBSCL”.

Ông Ni nhấn mạnh: “Việc chọn diện tích để đánh giá tác động này đã làm ảnh hưởng đến toàn bộ kết quả liên quan, trong đó có đa dạng sinh học. Vì diện tích đã chọn nhỏ hơn so với thực tế nên thuật ngữ “hệ sinh thái” trong báo cáo MDS không còn chính xác. Đặc biệt là những tác động trong báo cáo này có giá trị nhỏ hơn rất nhiều so với thực tế”.

GS.TS. Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, nhiều lần nói đến việc MDS bỏ qua các yếu tố biển, con người, biến đổi khí hậu và nước biển dâng. “Tác động của các đập thủy điện lên châu thổ Mêkông không thể tách rời tác nhân biển và tác nhân con người. Mặt khác, tác động của các đập không chỉ tức thì, trước mắt, mà còn tích lũy theo thời gian. Vì vậy không thể tách rời yếu tố biển đổi khí hậu, nước biển dâng”, GS. Trân nhấn mạnh.

Dẫn chứng về việc xói lở, GS. Trân cho rằng tốc độ xói lở và bồi đắp ngày càng bị tác động không chỉ do sụt giảm lượng phù sa về đồng bằng, mà còn do ảnh hưởng của nước biển dâng và khai thác nước ngầm quá mức. Đáng tiếc là “MDS chưa phân tích chi tiết các biến động này”.

Về sản xuất nông nghiệp, GS. Trân bức xúc: “Tôi cho rằng với cả ba tiêu chí sản lượng, diện tích canh tác và thời vụ, đánh giá của MDS là không đáng tin cậy, kết quả mô phỏng trên máy tính khác rất xa thực tế, cần được đánh giá lại. Bởi lẽ các kết quả mô phỏng là phiến diện, ngắn hạn, không tính đến đất tích lũy vì thiếu phù sa và những tác động dây chuyền”.


Thiếu hiểu biết thực tế 


Nhận xét chung về báo cáo MDS, ThS. Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, cho biết: “Chất lượng của nghiên cứu MDS, về khung nghiên cứu, phương pháp và kết quả như hiện nay là chưa đạt độ tin cậy. Báo cáo thiên về đơn giản hóa vấn đề, đánh giá thiếu và thấp các tác động đối với ĐBSCL. MDS chủ yếu dựa vào mô hình máy tính. Bản báo cáo cho thấy MDS thiếu hiểu biết thực tế về ĐBSCL và thiếu dữ liệu đầu vào”.

Ông Thiện dẫn chứng: “Ví dụ MDS nói mũi Cà Mau hiện nay đang vươn ra khoảng 20-100 mét/năm là không đúng thực tế”. MDS cũng dự báo 11 đập thủy điện này sẽ gây sạt lở 4-12 mét/năm với vùng cửa sông và sạt lở rất thấp, ít hơn 0,5 mét/năm với vùng biển phía Nam (từ Sóc Trăng xuống) nhưng “không rõ MDS tính toán các con số này như thế nào”.

Về nông nghiệp, ông Thiện nói MDS đơn giản hóa và đánh đồng phù sa với phân bón. “MDS chọn hai loại cây để đánh giá là lúa và bắp trong khi chính MDS thừa nhận sản lượng bắp không đáng kể (250.000 tấn/năm) và bỏ qua cây ăn trái ĐBSCL chiếm 80% sản lượng cả nước”. Và: “MDS sử dụng phần mềm Excel để quy đổi sự giảm năng suất lúa tại 1.596 xã ở ĐBSCL thông qua các yếu tố N, P, K trong phân bón mà bỏ qua dinh dưỡng do phù sa đem lại. MDS không thấy rằng ĐBSCL có được sự màu mỡ và là vựa lúa chính của Việt Nam là nhờ sông Mekông và sự thiếu phù sa này sẽ dẫn đến suy thoái đất”.

Về sinh kế, ông Thiện phân tích: “Cách phân vùng nghiên cứu của MDS nhầm lẫn: xếp Tam Bình (Vĩnh Long) vào vùng ngập sâu, chung với Hồng Ngự (Đồng Tháp); vùng nước ngọt, độ phèn cao lại bao gồm cả biển Đông ở Bạc Liêu và một phần Cà Mau cùng toàn bộ vùng biển Tây thuộc Kiên Giang. Việc phân loại vùng nhầm lẫn sẽ đưa đến kết quả phân tích nhầm lẫn giữa các vùng”.

Với mảng kinh tế, ThS. Nguyễn Hữu Thiện cho rằng MDS thiếu toàn diện và sai số: “MSD sử dụng con số của năm 2007 để làm nền tính toán (thí dụ giá cá trắng 35.000 đồng/ki lô gam và giá cá đen 18.000 đồng/ki lô gam)”. Và: “Nhầm lẫn số liệu thủy sản nội địa và thủy sản biển khi cho rằng Kiên Giang đứng đầu về thu nhập từ thủy sản, Bạc Liêu nhì, Cà Mau ba”.  Ông còn cho biết: “Ngoài ra không hiểu tại sao MDS lại chọn cá lau kiếng là một trong 10 loài có giá trị kinh tế nhất ĐBSCL chịu tác động của đập thủy điện trong khi đó là cá ngoại lai, không có giá trị?”.

Ông Thiện nói MDS không thấy được đất và nước là hai trụ cột chính của nền kinh tế ĐBSCL nên đã làm đơn giản hóa bức tranh tác động của đập thủy điện đối với ĐBSCL. “Vì tất cả lý do trên, kết luận của MDS rằng các đập thủy điện sẽ gây tổn thất 2,2% GDP ĐBSCL và 0,3% GDP cả nước (tương đương 85 triệu đô la Mỹ xuất khẩu gạo) là không đáng tin cậy”, ThS. Nguyễn Hữu Thiện nhấn mạnh.


* * *

Kết thúc bản báo cáo dài 22 trang chủ đề “Các vấn đề xuyên biên giới do tác động thủy điện ở thượng nguồn sông Mêkông”, PGS.TS. Lê Anh Tuấn, Phó giám đốc Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu, đề nghị do tầm quan trọng của ĐBSCL, báo cáo MDS cần có sự đánh giá rộng rãi hơn từ cấp Chính phủ, Quốc hội, các tỉnh ĐBSCL, các nhà khoa học am hiểu về châu thổ, các nhà báo, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng. Theo ông Tuấn: “Ủy ban Sông Mêkông Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường cần cầu thị với tất cả phản hồi và góp ý kiến để điều chỉnh báo cáo. Không đi tiếp giai đoạn tới (đề xuất giải pháp tác động) khi những giai đoạn trước đó chưa thông”.

Trong khi đó, GS.TS. Nguyễn Ngọc Trân kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường phải có báo cáo tài chính về dự án và Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội phải yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường giải trình về dự án.


(*) Báo cáo MDS là dự án cấp quốc gia trị giá 4,3 triệu đô la Mỹ do Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban Sông Mêkông Việt Nam chủ trì, thuê hai đơn vị tư vấn DHI (Đan Mạch) và HDR (Mỹ) thực hiện.

________________________________
Bài đã đăng tại:

Thứ Ba, 8 tháng 3, 2016

KIẾN NGHỊ XEM LẠI Báo cáo tác động của thủy điện trên sông Mekong (Mekong delta study - MDS)




Ngày 4-3, các chuyên gia dự hội thảo khoa học "Tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mekong" tổ chức tại Đại học Cần Thơ, đã đồng loạt kiến nghị phải xem xét lại Báo cáo Nghiên cứu tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mekong (Mekong delta study - MDS).

KIẾN NGHỊ

Đây là dự án cấp quốc gia, trị giá 4,3 triệu đô-la Mỹ, do Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) và Ủy ban sông Mekong Việt Nam chủ trì, thuê đơn vị tư vấn DHI (Đan Mạch) thực hiện trong vòng 30 tháng, đã được nghiệm thu ngày 29-1-2016, đang chờ Chính phủ thông qua.

GS TSKH Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và kỹ thuật nhà nước, kiến nghị Bộ TN&MT 5 điểm: "Công bố các báo cáo cuối cùng, chính thức của công ty tư vấn; công bố kết quả nghiệm thu với các tài liệu liên quan (danh sách hội đồng nghiệm thu, các báo cáo phản biện, trả lời của công ty tư vấn…); công bố TOR (điều khoản tham chiếu của hợp đồng) mà Bộ TN&MT đặt hàng cho công ty tư vấn; công bố văn bản hợp đồng đã ký giữa Bộ TN&MT với công ty tư vấn; báo cáo tài chính về dự án MDS". Giáo sư Trân cũng "kiến nghị với Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội, yêu cầu Bộ TN&MT giải trình về dự án MDS".

Kết thúc bản báo cáo dài 22 trang chủ đề "Các vấn đề xuyên biên giới do tác động thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong", PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó giám đốc Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (ĐH Cần Thơ), nhấn mạnh: "Kết quả tính toán của MDS phải được kiểm định bằng cách so sánh những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trước đó. Phải tìm ra những điểm phù hợp và những khác biệt, và cần có lý giải về những khác biệt vì báo cáo MDS không thực hiện việc này". Ông Lê Anh Tuấn kiến nghị: "Do tầm quan trọng của ĐBSCL, báo cáo MDS cần có sự đánh giá rộng rãi hơn từ cấp Chính phủ, Quốc hội, các tỉnh ĐBSCL, các nhà khoa học am hiểu về châu thổ, các nhà báo, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng". Và: "Ủy ban sông Mekong Việt Nam và Bộ TN&MT cần cầu thị với tất cả phản hồi và góp ý kiến để điều chỉnh báo cáo. Không đi tiếp giai đoạn tới (đề xuất giải pháp tác động) khi những giai đoạn trước đó chưa thông". 

TS Dương Văn Ni, Trưởng Bộ môn Quản lý môi trường - Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (ĐH Cần Thơ) nhấn mạnh lý do phải xem xét lại báo cáo MDS ngay trong mở đầu tham luận của mình: "Việc các nước ở thượng nguồn sông Mekong xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính có thể ảnh hưởng đến vùng châu thổ sông Mekong bao gồm ĐBSCL. Nhận thức rõ điều này nên Chính phủ Việt Nam đã đặt hàng cho tổ chức tư vấn quốc tế DHI thực hiện nghiên cứu này, gọi tắt là MDS (Mekong delta study). Vì vậy, một khi kết quả của báo cáo MDS này được Chính phủ Việt Nam thông qua, nó có ý nghĩa khoa học và pháp lý và cũng có ý nghĩa đây là quan điểm chính thức của Chính phủ Việt Nam về các đập thủy điện đối với các quốc gia trong lưu vực sông Mekong và trên thế giới".

Sơ đồ các đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong. 


Tương tự, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, nêu lý do MDS phải được xem xét lại trước khi trình Chính phủ thông qua: "Chất lượng của nghiên cứu MDS, về khung nghiên cứu, phương pháp và kết quả như hiện nay là chưa đạt độ tin cậy. Báo cáo thiên về đơn giản hóa vấn đề, đánh giá thiếu và thấp các tác động đối với ĐBSCL. MDS chủ yếu dựa vào mô hình máy tính. Bản dự thảo báo cáo cho thấy ở nhiều mảng, MDS thiếu hiểu biết thực tế về ĐBSCL và thiếu dữ liệu đầu vào. Có những phần cho thấy MDS chưa thể hiện sự nỗ lực xứng tầm với một công trình nghiên cứu lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với ĐBSCL".


VÌ SAO?


GS Nguyễn Ngọc Trân cho biết nhiều kết luận của MDS về đánh giá tác động của 11 đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong là thiếu thực tế vì được mô hình máy tính mô phỏng. "Kết quả mô phỏng, tức là cho một số liệu đầu vào sẽ có một số liệu đầu ra. Mà từ kết quả đến kết luận, phải đối chiếu với thực tế. Nếu không thì cũng như một bài tập trên máy tính cho sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, chứ không phải là một dự án nhà nước, tiêu tốn 4,3 triệu đô-la Mỹ", ông nhấn mạnh.

Trong hai bản báo cáo dài gần 50 trang, GS Trân còn cho biết MDS chưa tính đến các yếu tố con người, biển, biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở ĐBSCL: "Tác động của các đập thủy điện lên châu thổ Mekong không thể tách rời tác nhân biển và tác nhân con người. Mặt khác, tác động của các đập không chỉ tức thì, trước mắt, mà còn tích lũy theo thời gian, vì vậy không thể tách rời yếu tố biến đổi khí hậu, nước biển dâng". Về sản xuất nông nghiệp, GS Trân bức xúc: "Tôi cho rằng với cả ba tiêu chí sản lượng, diện tích canh tác và thời vụ, đánh giá của MDS là không đáng tin cậy, kết quả mô phỏng trên máy tính khác rất xa thực tế, cần được đánh giá lại, bởi lẽ các kết quả mô phỏng là phiến diện, ngắn hạn, không tính đến đất tích lũy vì thiếu phù sa và những tác động dây chuyền". 
"Nói cách khác, các kết quả của MDS chỉ là một lát cắt tại thời điểm mô phỏng, trong đó không có tác nhân con người và tác nhân biển", GS Nguyễn Ngọc Trân khái quát.

Nhận xét về MDS, ThS Nguyễn Hữu Thiện, sau khi phân tích, đã đưa ra kết luận cho từng nội dung. Về khung nghiên cứu chung, ông cho là "thiếu sót"; về phù sa và sạt lở: "không logic và thiếu thực tế"; nông sản thì "không toàn diện"; về đa dạng sinh học: "hàm lượng kiến thức sinh thái thấp"; về nông nghiệp: "đơn giản hóa vấn đề, đánh đồng phù sa với phân bón"; về sinh kế: "kết quả chưa đáng tin cậy"; về kinh tế: "thiếu toàn diện, lan truyền sai số". 

Cảnh đắp đê cứu lúa vụ 3 trong mùa lũ năm 2011 ở Châu Phú - An Giang. 


Ví dụ với mảng kinh tế, ông Thiện cho biết: "MDS sử dụng con số của năm 2007 để làm nền tính toán (thí dụ giá cá trắng 35.000 đồng/ký-lô-gam và giá cá đen 18.000 đồng/ký-lô-gam)". Và: "Nhầm lẫn số liệu thủy sản nội địa và thủy sản biển khi cho rằng Kiên Giang đứng đầu về thu nhập từ thủy sản, Bạc Liêu nhì, Cà Mau ba". Ông cũng thắc mắc: "Không hiểu tại sao MDS lại chọn cá lau kiếng là một trong 10 loài có giá trị kinh tế nhất ĐBSCL chịu tác động của đập thủy điện trong khi đó là cá ngoại lai, không có giá trị?". 

Ông Thiện nói "MDS không thấy được đất và nước là hai trụ cột chính của nền kinh tế ĐBSCL nên đã làm đơn giản hóa bức tranh tác động của đập thủy diện đối với ĐBSCL". 

"Vì tất cả lý do trên, kết luận của MDS cho rằng các đập thủy điện sẽ gây tổn thất 2,2% GDP ĐBSCL và 0,3% GDP cả nước (tương đương 85 triệu đô-la Mỹ xuất khẩu gạo) là không đáng tin cậy", ThS. Nguyễn Hữu Thiện nhấn mạnh.

TS Dương Văn Ni cho biết khi chọn khu vực địa lý để nghiên cứu, các tác giả chỉ chọn vùng ngập lụt. Trong khi mặc dù không ngập lụt hàng năm nhưng các vùng khác của ĐBSCL lại có tác động trao đổi vì cùng hệ sinh thái. "Nghiêm trọng hơn là tác giả loại bỏ phần diện tích biển tiếp giáp đất liền, đây là phần hoàn toàn thuộc hệ sinh thái ĐBSCL. Vì hàng năm nước biển xâm nhập đất liền trong mùa nắng và nước sông mang nước ngọt và phù sa ra biển vào mùa khô; ở vùng này sự trao đổi vật chất xảy ra nhiều hơn vùng ngập lụt theo mùa", ông Ni phân tích.

Về việc MDS chọn nhóm loài để đánh giá tác động đối với đa dạng sinh học, theo ông Ni là "chưa chính xác, vì các loài này không đại diện cho sự phong phú của đa dạng sinh học vùng ĐBSCL".

TS Dương Văn Ni nhấn mạnh: "Như vậy việc chọn diện tích để đánh giá tác động này đã làm ảnh hưởng đến toàn bộ kết quả liên quan, trong đó có đa dạng sinh học. Vì diện tích đã chọn nhỏ hơn so với thực tế nên thuật ngữ "hệ sinh thái" trong báo cáo MDS không còn chính xác. Đặc biệt là những tác động trong báo cáo này có giá trị nhỏ hơn rất nhiều so với thực tế". 

Theo PGS.TS Lê Anh Tuấn thì số liệu về phù sa của MDS thấp hơn 10 lần so với số liệu được công bố chính thức của Ủy hội sông Mekong. MDS sử dụng bảng số liệu 8 điểm, khi đưa lên sơ đồ địa hình ĐBSCL lại là 11 điểm và kết quả đầu ra thì... 13 điểm. Ngoài ra, khi đánh giá tác động từ phía Trung Quốc, MDS chỉ xem xét 7 đập thủy điện trong khi Trung Quốc có 14 đập và dự án thủy điện.

Trong kết luận về MDS, PGS.TS Lê Anh Tuấn nhấn mạnh: "Lấy kết quả một mô hình thiếu chuẩn xác để suy ra những hệ quả tiếp theo về sinh cảnh, đa dạng sinh học, thủy sản, nông nghiệp, giao thông thủy… sẽ không tin cậy. Do vậy những đánh giá tiếp về sinh kế, kinh tế xã hội càng khó được chấp nhận". 

Bài đã đăng tại:
http://www.baocantho.com.vn/?mod=detnews&catid=72&id=176122

Thủ tướng: khẩn cấp xây các công trình chống hạn mặn


Trung Chánh


(TBKTSG Online) – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi làm việc hôm nay 7-3, tại Cần Thơ với các lãnh đạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã yêu cầu các bộ ngành có liên quan và các địa phương khẩn cấp xúc tiến việc xây dựng các công trình chống hạn, mặn ở ĐBSCL do tính chất nguy cấp của tình hình.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung ứng phó hạn, mặn nhằm giảm thiệt hại đến mức thấp nhất. Trong ảnh là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (đứng) chỉ đạo tại hội nghị hôm nay. Ảnh: Trung Chánh


Sau khi nghe báo cáo của các lãnh đạo địa phương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN-PTNN), Thủ tướng nhận xét rằng tình hình hạn, mặn đang diễn ra rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống của hàng triệu người ngay trong năm nay.

Theo Thủ tướng, với dự báo tình hình khô hạn và xâm nhập mặn còn lấn sâu vào nội đồng với mức độ cao hơn và sẽ kéo dài đến tháng 6-2016 thì trong vụ hè thu 2016 sắp tới, toàn vùng ĐBSCL sẽ có khoảng 500.000 héc ta diện tích sản xuất lúa, tương đương 30% diện tích của vùng này, sẽ không thể xuống giống đúng thời vụ.

“Như vậy, nhiều khả năng sẽ có khoảng 1 triệu hộ nông dân, tương dương 5 triệu người sẽ bị ảnh hưởng do năng suất lúa có nguy cơ giảm”, ông cho biết.

Về nước sinh hoạt, theo ông Dũng, xâm nhập mặn hiện đã ảnh hưởng đến đời sống một số khu vực ở các cửa sông và vùng ven biển các tỉnh như Cà Mau, Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Long An, Tiền Giang và Bạc Liêu với khoảng 155.000 hộ, tương đương khoảng 575.000 người.

Do vậy, ông Dũng đề nghị các bộ, ngành và địa phương trong vùng ĐBSCL, bằng mọi biện pháp, bằng những cách khác nhau tùy vào mỗi địa phương, phải giảm đến mức thấp nhất thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt không để người dân phải thiếu nước ngọt sinh hoạt.

Theo ông Dũng, Chính phủ nhất trí với những giải pháp được các địa phương đưa ra để ứng phó với hạn mặn, chẳng hạn như xây dựng các công trình ngăn mặn ở những nơi thật sự cấp bách; xây dựng các đập tạm ngăn mặn trữ nước ngọt; đầu tư xây dựng các hồ điều tiết nước ngọt phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt của người dân; nghiên cứu xây dựng các tuyến ống dẫn nước sạch và đầu tư các túi chứa nước ngọt tạm thời…

Để thực hiện các công việc đã nêu ra, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các đơn vị có liên quan nhanh chóng rà soát những công trình thật sự cấp bách để ưu tiên làm trước trong bối cảnh nguồn kinh phí có hạn nhưng vẫn trên tinh thần sẵn sàng “rót” kinh phí để các địa phương thực hiện.

Ngoài ra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng có biện pháp chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện khoanh nợ đối với những hộ bị thiệt hại do hạn, xâm nhập mặn và bố trí vốn vay để nông dân khôi phục sản xuất.

Thiệt hại không ngừng gia tăng


Trước đó, báo cáo với Thủ tướng tại cuộc họp, ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ NN-PTNN, cho biết tính đến nay, tổng diện tích lúa đông xuân 2015-2016 bị thiệt hại do hạn và xâm nhập mặn của ĐBSCL là khoảng 139.000 héc ta, tăng khoảng 34.000 héc ta so với số liệu được đơn vị này cập nhật vào giữa tháng 2-2016, nghĩa là tăng 30% chỉ sau ba tuần.

Trong số này, có 86.000 héc ta bị thiệt hại với tỷ lệ 70%, chiếm 62% tổng diện tích bị thiệt hại; 43.000 héc ta bị thiệt hại với tỷ lệ từ 30% đến dưới 70%, chiếm 31%, và 9.800 héc ta bị thiệt hại với tỷ lệ dưới 30%, chiếm 7% tổng diện tích bị thiệt hại.

Tại tỉnh Bến Tre, ông Võ Thành Hạo, Bí thư tỉnh ủy, cho biết toàn bộ diện tích lúa của địa phương này gần như đã bị mất trắng. “Tất cả các trà lúa của các huyện đều ngả màu đỏ hết rồi (do ảnh hưởng của xâm nhập mặn); cây ăn trái thì đến nay cũng đã có 1.225 héc ta bị ảnh hưởng với tổng thiệt hại đến nay là khoảng 200 tỉ đồng”, ông Hạo cho biết.

Theo ông Phát, toàn vùng ĐBSCL hiện đã thu hoạch được khoảng 40% trên tổng diện tích lúa đông xuân 2015-2016 đã xuống giống là hơn 1,5 triệu hécta, và dự báo sẽ có thêm khoảng 46.000 héc ta bị thiệt hại trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Chí Dũng, Thứ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư, cho rằng các địa phương vùng ĐBSCL nên có kế hoạch ứng phó với hạn và xâm nhập mặn một cách dài hạn theo ba bước “phòng, chống, thích ứng” và đề xuất Chính phủ dành nhiều nguồn lực hơn cho khu vực này.

“Các địa phương phải rà soát danh mục dự án đã được phê duyệt và bổ sung ngay các dự án cấp bách, bởi trong hai năm 2016 và 2017 mỗi năm chúng ta chắc chắn sẽ có khoảng 250 triệu đô la Mỹ vốn trong chương trình vốn ODA. Tôi đề nghị Chính phủ ưu tiên cho phép sử dụng cho ĐBSCL, thì hai năm tới sẽ có khoảng 10.000 tỉ đồng”, ông cho biết.

Trong khi đó, để hỗ trợ người dân cũng như ứng phó với hạn và xâm nhập mặn một cách lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã kiến nghị Chính phủ cấp một khoảng kinh phí hơn 10.550 tỉ đồng, trong đó, hỗ trợ khắc phục hậu quả của hạn mặn là hơn 623 tỉ đồng; mua giống, khôi phục sản xuất là 215 tỉ đồng; tạm ứng hỗ trợ khẩn cấp kinh phí phòng, chống hạn và xâm nhập mặn như đắp đập tạm, cấp nước sinh hoạt cho các địa phương là 650 tỉ đồng.

Ngoài ra, theo Bộ trưởng Phát, cần bố trí 1.060 tỉ đồng đầu tư một số công trình phòng chống hạn và xâm nhập mặn giai đoạn 2016-2020; bố trí nguồn vốn trái phiếu Chính phủ qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện các dự án có tác động liên vùng giai đoạn 2016-2020 với tổng kinh phí là 8.000 tỉ đồng.

Tại buổi làm việc, bước đầu Thủ tướng đã đồng ý chi 524 tỉ đồng để hỗ trợ cho 39 địa phương trong cả nước bị ảnh hưởng bởi hạn và xâm nhập mặn, trong đó, 9 tỉnh ĐBSCL (đã có báo cáo) là khoảng 140 tỉ đồng (lấy số tròn), tính đến hết tháng 1-2016. Mức chi hỗ trợ căn cứ theo tỷ lệ diện tích lúa bị thiệt hại theo quy định của nhà nước. “Riêng đối với những địa phương chưa báo cáo, sẽ tổng hợp và bố trí hỗ trợ sau”, ông cho biết.

Bài đã đăng tại:
http://mobile.thesaigontimes.vn/tinbaichitiet/143217