Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016

Dòng Mekong đang hấp hối: Đến đập Cảnh Hồng thấy viễn cảnh đáng lo

QUỲNH TRUNG 
- NGUYỄN KHÁNH


TTO - Sau khi Trung Quốc thông báo nước này thông qua đập thủy điện Cảnh Hồng xả lượng nước lên đến 2.190m3/s từ 15-3 đến 10-4 giúp chống hạn ở hạ lưu sông Mekong, PV Tuổi Trẻ tìm đường đến đập thủy điện này.


Dòng Mekong đang hấp hối: Đến đập Cảnh Hồng thấy viễn cảnh đáng lo
Nước từ cửa xả của đập thủy điện Cảnh Hồng đang chảy xuống hạ lưu sông Mekong, phía Trung Quốc gọi là sông Lan Thương (ảnh chụp chiều 6-4) - Ảnh: Nguyễn Khánh

Cảnh Hồng là một trong sáu đập thủy điện thuộc tỉnh Vân Nam mà Trung Quốc đã hoàn tất xây dựng. Các con đập này nằm chắn ngang thượng nguồn sông Mekong, bao gồm: Cảnh Hồng, Nọa Trát Độ, Đại Triều Sơn, Mạn Loan, Tiểu Loan và Công Quả Kiều.


Xả nước 2.300m3/s


Đập Cảnh Hồng cách trung tâm du lịch Cao Trang khoảng 10-15 phút đi xe. Trên đường đến con đập thủy điện này là một khu vực dân cư thưa thớt, hai bên đường luôn trong tình trạng bụi bặm vì các xe trọng tải lớn liên tục di chuyển.

Bảo vệ thủy điện Cảnh Hồng khá cẩn thận vì cảnh sát đứng án ngữ ở tất cả những con đường dẫn vào đập và ra hiệu không cho người lạ vào bên trong.

Ở vị trí cách đập khoảng 2km, không như trí tưởng tượng của chúng tôi, mực nước sông Lan Thương (cách Trung Quốc gọi sông Mekong) khá thấp, nhiều khu vực nổi lên những bãi đá phủ đầy rêu, cỏ, dù được thông báo là đã xả nước nhưng dòng chảy vẫn không mạnh.

Ở trạm thủy văn Cảnh Hồng nằm bên bờ sông, chúng tôi gặp ông La, trưởng nhóm khí tượng thủy văn của trạm.

Ông La xác nhận từ ngày 15-3 đến 10-4 Trung Quốc xả nước với dung lượng từ 2.190-2.300m3/s xuống hạ lưu sông Mekong. Ông cho biết lưu lượng nước xả năm nay thấp hơn nhiều so với năm ngoái. Cụ thể, vào tháng 6-2015, lượng xả nước từ đập Cảnh Hồng đạt 3.800m3/s.

Vị trưởng nhóm khí tượng thủy văn của trạm khẳng định trạm 
này được thành lập vào tháng 6-1955, là điểm cuối khống chế lưu lượng nước trong nội địa Trung Quốc đối với dòng chảy chính của sông Mekong và cũng là trạm đo lường kiểm soát nước với diện tích lớn nhất của tỉnh Vân Nam, với diện tích tập trung nước gần 142 triệu m3.

“Một năm tại khu vực này chỉ có hai mùa là mùa khô và mùa mưa và lượng mưa trung bình hằng năm 1.142mm, trong đó có trên 85% lượng mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10. Tại khu vực xung quanh đập thủy điện Cảnh Hồng chưa bao giờ xảy ra tình trạng hạn hán" - ông La chia sẻ thêm.

Theo các tài liệu chúng tôi thu thập được, đập thủy điện Cảnh Hồng được người trong ngành gọi là kiến trúc dẫn đầu trong “kiến trúc cốt cán của điện lực Vân Nam” trên sông Mekong. Đập này cao 108m, dài 705m. Nó có công suất 1.750 MW, gồm năm tuôcbin phát điện.

Đây là trạm cấp thứ 6 trong kế hoạch hai hồ chứa 8 cấp của quy hoạch thủy điện trên dòng chính trung hạ lưu sông Mekong.

Kế hoạch lúc đầu của trạm điện là bán điện sang Thái Lan, nhưng vì sớm đưa vào hoạt động và thúc đẩy xây dựng con đường “đưa điện từ tây sang đông”, tỉnh Vân Nam và Tập đoàn Hóa Năng sau khi thỏa thuận với bên Thái Lan đã quyết định sẽ xây dựng cả trạm Cảnh Hồng và trạm Nọa Trát Độ thành 1 tổ phát điện, do Tập đoàn Hóa Năng Mekong toàn quyền đầu tư xây dựng.

Trạm điện xây dựng xong sẽ đưa điện sang tỉnh Quảng Đông trước, sau đó căn cứ vào thị trường điện của Thái Lan sẽ do Mạng lưới Phương Nam với chức năng là cơ quan hợp tác đối ngoại đưa điện sang Thái Lan.



Dòng Mekong đang hấp hối: Đến đập Cảnh Hồng thấy viễn cảnh đáng lo
Một thiết bị quan trắc nước tại trạm thủy văn Cảnh Hồng - Ảnh: Q.Trung


Kề thủy điện 
mà không có điện


Dọc hai bên con đường vào thủy điện Cảnh Hồng khá vắng vẻ, lác đác vài căn nhà nhỏ ven sông.

Chúng tôi gặp ông Trương Liên Sinh, một trong những cư dân hiếm hoi sống gần khu vực đập thủy điện, khi ông đang giặt đồ trong ngôi nhà tranh lụp xụp.

Người đàn ông 50 tuổi thật thà cho biết ông không để ý đến việc xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng. Ông kể cả gia đình ông đã sống ở khu vực này gần 20 năm.

Trước khi xây các đập thủy điện dọc sông Mekong, mực nước sông tại đây vào mùa mưa dâng rất cao, có khi ngập đến tràn bờ, tràn nước vào nhà ông nhưng bây giờ mực nước khá thấp.

Ông kể từng làm công nhân xây dựng đập thủy điện Cảnh Hồng và nay kiếm kế sinh nhai bằng trồng trọt, đốn củi, cạo mủ cao su, nuôi gà, nuôi dê.

Ông cho biết người dân khu vực xung quanh đập thủy điện đều mưu sinh bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi như ông, chứ không sống dựa vào dòng sông Mekong. Ngay cả nguồn nước ngọt mà gia đình ông Sinh dùng là lấy từ một dòng suối chảy ở khe núi gần đó.

Rồi ông than phiền về một điều vô cùng nghịch lý rằng trước khi có các đập thủy điện thì nhà ông có điện sử dụng thường xuyên, nhưng sau khi các đập thủy điện được xây xong thì nhà ông và các nhà lân cận phải sống trong bóng tối vì thiếu điện.

Ông chạy vào nhà lấy đèn pin và điện thoại giải thích cho chúng tôi xem, là cứ cách vài ngày lại chạy sang nhà một người bạn để sạc điện. Ông nói ước mơ duy nhất của ông chỉ là được cấp điện, để không còn sống trong bóng tối khi màn đêm buông xuống nữa.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, TS Đào Trọng Tứ, giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển bền vững tài nguyên nước & thích nghi biến đổi khí hậu (CEWAREC), cho biết các thông tin gần đây trên các phương tiện truyền thông cho rằng Trung Quốc tăng gấp đôi lượng nước để xả xuống hạ lưu cứu hạn cho các nước Đông Nam Á là không chính xác. “Trên thực tế, theo thống kê của chúng tôi thì lượng xả nước của Trung Quốc so với cùng kỳ lại thấp hơn so với năm 2014 và chỉ bằng năm 2015" - TS Tứ giải thích.

TS Tứ cũng cho biết thêm rằng sông Mekong chảy qua sáu nước Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.

Trong đó Trung Quốc chiếm 16% tổng lượng nước và 18% diện tích lưu vực của dòng sông Mekong.

“Dự kiến đến năm 2020 số lượng đập thủy điện của Trung Quốc sẽ là 8, hiện nay họ đã xây được 6 đập với tổng dung tích hồ chứa là 11 tỉ m3, con số này sẽ nâng lên thành 30 tỉ m3 khi Trung Quốc vận hành hết các con đập sau năm 2020” - TS Tứ nói với Tuổi Trẻ.


Ảnh hưởng tiêu cực với hạ lưu


Đánh giá về các đập thủy điện trên dòng sông Mekong tại lãnh thổ Trung Quốc, TS Đào Trọng Tứ khẳng định: Các đập thủy điện của Trung Quốc ở thượng lưu sông Mekong đã, đang và sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đối với sông Mekong.
Cụ thể, các con đập này đã làm thay đổi dòng chảy xuống hạ nguồn, đặc biệt trong các thời điểm các hồ thủy điện tích nước và xả nước, lượng nước thay đổi thất thường khiến cho các quốc gia phía hạ lưu chung dòng chảy sông Mekong luôn trong tình trạng bị động để điều phối dòng nước khi phục vụ nhu cầu của quốc gia.


Thứ hai, các con đập này trước khi chảy xuống khu vực hạ lưu sông đã giữ lại một lượng phù sa rất lớn, theo các phân tích thì lượng phù sa nằm phía thượng nguồn sông Mekong thuộc lãnh thổ Trung Quốc theo tính toán chiếm khoảng 50% lượng phù sa của sông MeKong.


Theo TS Tứ, nghề thủy sản của người dân sống xung quanh dòng sông sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.


Các đập thủy điện kéo dài dọc sông Mekong sẽ khiến các loài cá khó di cư từ vùng này sang vùng khác để sinh sản, nhiều loài có nguy cơ bị tiêu diệt, đặc biệt với các loài cá da trơn có trọng lượng lớn, một trong những “đặc sản” của dòng sông Mekong.


Hạn-mặn 2016: giải pháp thích ứng về lâu dài


Nguyễn Hữu Thiện


Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đối mặt với những thách thức và cơ hội mới, rất cần xem xét lại chiến lược an ninh lương thực để tránh chỉ tập trung vào cây lúa, tăng sản lượng bằng mọi giá. Ảnh: LÊ HOÀNG VŨ

(TBKTSG) - Tình trạng hạn - mặn gay gắt năm nay ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do hiện tượng El Nino cực đoan. Vậy ĐBSCL nên ứng phó như thế nào về lâu dài?

Không nên lấy hiện tượng cực đoan năm nay làm chuẩn cho chiến lược lâu dài.

Trước tiên cần phải phân biệt hiện tượng cực đoan và khuynh hướng lớn của nhiều năm. Hiện tượng hạn - mặn gay gắt năm nay là hiện tượng cực đoan, hiếm xảy ra, ít nhất là 90 năm nay mới có lần đầu (thật ra con số 90 tròn trịa là vì ta chỉ có số liệu từ năm 1926 do Pháp để lại). Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, những hiện tượng cực đoan được dự báo sẽ xảy ra thường xuyên hơn. Ví dụ hiện tượng 100 năm mới có một lần có thể xảy ra 20 năm một lần.

Nhưng dù gì đi chăng nữa, hiện tượng cực đoan không phải là khuynh hướng chung. Ngoài những năm có hiện tượng cực đoan sẽ là “khuynh hướng bình thường”. “Bình thường” ở đây có nghĩa là khuynh hướng diễn biến biến đổi khí hậu mà ta đã biết, nước biển dâng, nhiệt độ tăng...

Do năm nay tình trạng hạn - mặn gay gắt gây ra nhiều thiệt hại cho người dân nên chính quyền địa phương không thể ngồi yên, báo chí, dư luận cũng không thể đứng ngoài, và Chính phủ phải có hành động khẩn cấp. Cả xã hội lao vào vòng xoáy “phải làm điều gì đó” ngay. Hành động khẩn cấp là hoàn toàn đúng, cần thiết. Tuy nhiên, đối với chiến lược thích ứng lâu dài, không nên lấy tình hình của năm cực đoan, chưa khẳng định là khuynh hướng, như năm nay, làm chuẩn. Một chiến lược lâu dài nên dựa vào khuynh hướng chung nhiều năm, có dự trù chi cho tình huống cực đoan.


Thay đổi để thích ứng


Như đã đề cập ở trên, trừ những năm cực đoan, còn lại là những năm nằm trong khuynh hướng biến đổi khí hậu chúng ta đã biết là nhiệt độ ngày càng tăng, nước biển dâng cao dần dần, xâm nhập mặn xâm lấn dần.Vùng ven biển ĐBSCL có thể chia làm ba vùng, độ dày mỏng tùy theo địa hình, vị trí gần hay xa nguồn nước sông Cửu Long. Rìa nhất là vùng mặn quanh năm; kế tiếp là vùng nước lợ với sáu tháng ngọt, sáu tháng mặn; trên đó là vùng ngọt. Khuynh hướng hiện nay là hai vùng ngoài đang lấn dần vào vùng trong. Khuynh hướng này khó cưỡng lại.

Đối phó với những thay đổi thì có nhiều cách lựa chọn, hoặc là kiên cố chống lại sự thay đổi để duy trì tình trạng hiện tại; hoặc rút lui; hoặc thay đổi theo để phù hợp và tận dụng cơ hội mới. Thông thường, khi biết một khuynh hướng không thể chống lại, thay đổi theo cũng là cách thích ứng tốt. Vậy đối với vùng mặn hẳn và vùng nước lợ, không nên cố gắng duy trì hệ thống canh tác ngọt suốt năm mà nên thích nghi. Theo đó vùng mặn hẳn nên canh tác mặn quanh năm, vùng lợ nên có hệ thống canh tác mặn trong mùa mặn và canh tác ngọt trong mùa ngọt.


Hành động thích ứng cũng phải tính thiệt hơn



An ninh lương thực không chỉ là tự cung tự cấp mà miễn sao mọi người có thể tiếp cận được lương thực bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, có thể do dùng tiền mua mà có.