(TBKTSG
Online) - Chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp
là quan điểm thứ 2 trong Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu. Quan
điểm này được tỉnh Đồng Tháp - địa phương được Chính phủ chọn để thí điểm việc
tái cơ cấu nông nghiệp - quán triệt trong những năm gần đây. Từ đó, UBND tỉnh
Đồng Tháp đã phối hợp cùng Thời báo Kinh tế Sài Gòn tổ chức
hội thảo "Giúp nông dân làm kinh tế nông nghiệp".
Cuộc
hội thảo bắt đầu từ 8 giờ 30 sáng ngày 9-6 tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp, được trực tiếp tại 81 điểm cầu, gồm 12 điểm cầu cấp huyện và 68 điểm cầu
cấp xã, và có sự tham gia của 13 hợp tác xã cùng 51 hội quán trên địa bàn tỉnh,
giúp thông tin được chuyển đến từng người nông dân tại địa bàn.
Cuộc hội thảo "Giúp nông dân làm kinh tế nông nghiệp" được trực tiếp tại 81 điểm cầu, gồm 12 điểm cầu cấp huyện và 68 điểm cầu cấp xã trên toàn tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: Thủy Triều |
Ông Nguyễn Văn Dương, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp: "Nông dân
vẫn tiếp tục quy trình sản xuất truyền thống"
Mở đầu sự kiện,
ông Nguyễn Văn Dương, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, nhận định cho đến nay một
bộ phận nông dân vẫn tiếp tục quy trình sản xuất truyền thống, và tình trạng
nông sản giảm giá khi năng suất sản xuất gia tăng vẫn liên tục diễn ra. Mặc dù
câu chuyện "được mùa mất giá" phản ánh phần nào quy luật thị trường
nhưng nếu đã xây dựng quy hoạch và có sự chuẩn bị từ đầu, có sự liên kết chặt
chẽ giữa doanh nghiệp phân phối, chế biến với các nhà sản xuất, hộ nông dân...
sẽ phần nào giúp giảm bớt những rủi ro cho tiêu thụ nông sản.
"Chúng tôi
cũng kỳ vọng hội thảo sẽ mang nhiều thông hữu ích về nông nghiệp công nghệ cao
giúp nông dân chuyển đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông
nghiệp, thích ứng với thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cùng thúc đẩy
nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam phát triển", ông Dương nói.
Ông Nguyễn Văn Dương, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, phát biểu khai mạc hội thảo "Giúp nông dân làm kinh tế nông nghiệp" sáng ngày 9-6. Ảnh: Ngọc Hùng |
Ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp: "Tái cơ cấu nông
nghiệp là một hành trình dài"
Phát biểu tại hội thảo, ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh
ủy Đồng Tháp, đề nghị các chuyên gia sẽ đưa ra những khuyến nghị cụ thể mà Đồng
Tháp có thể làm ngay hoặc làm trong trung dài hạn; hoặc những vấn đề mà Đồng
Tháp phải kiến nghị với trung ương. Cụ thể từ người nông dân, hợp tác xã, doanh
nghiệp và cả cơ quan quản lý
cần phải làm gì trong thời gian ngắn cũng như trung dài hạn sắp tới để giảm
phần nào tình trạng được mùa mất giá từ bao năm nay.
Theo ông Hoan,
tái cơ cấu nông nghiệp là một hành trình dài, từ bước ban đầu về đề ra giải
pháp cho đến bước triển khai thực hiện. Trong hành trình này cần sự đồng hành
giữa các bên, gồm cơ quan làm chính sách, chuyên gia, doanh nghiệp, nhà sản
xuất, nông dân... để cùng nhau thực hiện việc chuyển đổi tư duy trong làm kinh
tế nông nghiệp.
Ông Phạm Phú Ngọc Trai, Chủ tịch Công ty Tư vấn Kinh doanh Hội
nhập Toàn Cầu (GIBC): "Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị là hướng đi
bền vững"
Trong vai trò
diễn giả đầu tiên trình bày tại hội thảo, ông Phạm Phú Ngọc Trai, Chủ tịch Công
ty Tư vấn Kinh doanh Hội nhập Toàn Cầu (GIBC), đã phác thảo bức tranh ngành
nông nghiệp Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng trong sự đóng góp cho phát
triển kinh tế. Theo ông Trai, xét ở quy mô cả nước lẫn nội vùng, thì ngành nông
nghiệp đang tồn tại rất nhiều điểm hạn chế. Vì vậy, việc định hướng để ngành
nông nghiệp đi đúng quỹ đạo, giúp gia tăng thu nhập cho người nông dân trong
bối cảnh hội nhập quốc tế là điều cần thiết phải làm. Những thách thức không
chỉ đến từ tình trạng biến đổi khí hậu, thiếu hụt nguồn nước mà còn bởi áp lực
cạnh tranh về nguồn lực của những nền kinh tế khác như công nghiệp, dịch vụ và
tình trạng đô thị hóa. Những vấn đề của thị trường và sự thay đổi nhu cầu tiêu
dùng nông sản cũng đòi hỏi người nông dân phải thay đổi cách thức sản xuất,
kinh doanh.Ông Phạm Phú Ngọc Trai (thứ nhất, bên trái), Chủ tịch Công ty Tư vấn Kinh doanh Hội nhập Toàn Cầu (GIBC), trình bày về giải pháp cho ngành nông nghiệp ĐBSCL. Ảnh: Thủy Triều |
Theo ông Trai,
sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị là hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu
quả sản xuất và thu nhập cho nông dân. Hình thức này đảm bảo cho các tác nhân
tham gia trong chuỗi chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm với nhau, điều tiết cung
cầu thị trường và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Tuy nhiên, hiện
nay chuỗi giá trị nông sản từ khâu đầu vào, sản xuất, sau thu hoạch, chế biến
đến xuất khẩu đều tồn tại những hạn chế nhất định.
Cụ thể, tại khâu
đầu vào, chi phí còn cao với giá cả biến động. Ở khâu này còn diễn ra tình
trạng “lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật”; đến khâu sản xuất, thì quy mô
khá nhỏ, thiếu liên kết.
Bên cạnh đó, quy
trình kỹ thuật sai, sử dụng quá nhiều lao động và chất lượng không đồng nhất
cũng là những hạn chế điển hình. Giá nông sản trung bình cao hơn 10% so với các
nước là do chi phí sản xuất cao. Ở khâu chế biến, hạn chế được chỉ ra là chi
phí hậu cần (logistics) cao, trình độ công nghệ thấp, giá trị gia tăng thấp,
quy mô nhỏ, manh mún. Riêng về xuất khẩu, hạn chế dễ nhận thấy là chất lượng
thấp, giá thấp; sản phẩm xuất khẩu thiếu thương hiệu. Ngoài ra, quản lý chất
lượng và an toàn thực phẩm kém, thiếu thông tin thị trường.Ông Phạm Phú Ngọc Trai khuyến nghị ĐBSCL cần đẩy mạnh liên kết vùng và thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp. |
Vị doanh nhân này cho rằng
ĐBSCL hiện đang thiếu sự liên kết vùng trên diện rộng. Trong khi đó, đẩy mạnh
liên kết vùng là con đường không chỉ thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp, mà còn
thực hiện mục tiêu lớn hơn là đưa vùng ĐBSCL phát triển bền vững. Điều này, có
thể được dẫn chứng tại tiểu vùng Đồng Tháp Mười (3 tỉnh
Đồng Tháp, Tiền Giang và Long An) khi đại diện lãnh đạo các địa phương này cùng
nhà khoa học trường Đại học Cần Thơ và TPHCM tổ chức liên kết tiểu vùng để bảo
tồn các giá trị về hệ sinh thái và văn hóa thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm
phục vụ đời sống người dân và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đứng trước sự
hội nhập sâu rộng của nền kinh tế hiện nay, đặc biệt là khi có thêm sự hiện
diện của hai sân chơi lớn CPTPP và APEC, quy mô và độ mở ngày càng lớn và đa
dạng hơn của thị trường sẽ chính là những cơ hội lớn. Vì thế, đòi hỏi, nông
nghiệp Việt Nam buộc phải chuyển đổi mạnh theo hướng hiện đại hóa và thương mại
hóa, theo phương châm tăng giá trị, giảm đầu vào, hình thành các chuỗi giá trị
trong một nền kinh te nông nghiệp.
Đứng trước thách
thức đó, liệu chúng ta có thể làm gì? Ông Trai nêu ra câu hỏi và khuyến nghị
một loạt giải pháp mà ngành nông nghiệp ĐBSCL cần ưu tiên thực hiện song hành.
Thứ nhất, quy
hoạch từng ngành trong nông nghiệp theo xu thế của nền kinh tế thị trường, hội
nhập với các nền kinh tế khác dựa trên cơ sở chất lượng và giá thành. Cần cân
nhắc giữa lợi ích ngắn hạn và dài hạn trong việc tăng trưởng bền vững.
Thứ hai, cấu
trúc lại mô hình sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, xây dựng quy mô cho phù
hợp với xu thế của hội nhập và đặc thù của nông nghiệp Việt Nam. Tham gia vào
chuỗi giá trị cung ứng nhằm giảm chi phí cho tất cả các công đoạn của quy trình
sản xuất và kinh doanh, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh
nghiệp nắm bắt cơ hội tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ ba, chú
trọng áp dụng công nghệ cao cùng với đổi mới và sáng tạo vì đây luôn là chìa
khóa cho mọi vấn đề về hiệu quả trong sản xuất kinh doanh từ đó góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh. Từ đó, gia tăng năng suất lao động để đảm bảo hiệu quả
đồng thời nâng cao đời sống của lực lượng lao động trong nông nghiệp vốn có thu
nhập thấp và không ổn định.
Cùng với đó, Nhà
nước cần kết hợp với doanh nghiệp quy hoạch sản phẩm đầu ra cho cả ngành một
cách chiến lược theo từng giai đoạn, từng thời kỳ nhằm giảm thiểu tình trạng
mất cân đối cung cầu vẫn hay xảy ra. Đảm bảo được đầu ra ổn định của sản phẩm,
cân đối được cung cầu, sẽ giúp giải quyết được hiệu quả bài toán bình ổn giá,
tránh được nạn đầu cơ tích trữ, mà trên hết thảy là tránh được vô số lãng phí
đối với công sức và của cải của toàn xã hội.
Bên cạnh đó,
chiến lược phát triển du lịch ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu sẽ đóng
góp tích cực đến việc nâng cao hiệu quả của chuỗi giá trị trong sản xuất và kinh
doanh trong ngành nông nghiệp. Cấu trúc lại quy mô và mô hình sản xuất trong
nông nghiệp thông qua chiến lược phát triển du lịch sẽ tăng hiệu quả cho bà con
nông dân sản xuất nhỏ.Về phát triển
thương hiệu nông nghiệp ĐBSCL, cần có một chiến lược xây dựng thương hiệu sản
phẩm, thương hiệu ngành, thương hiệu địa phương, quốc gia và quốc tế theo một
tầm nhìn dài hạn và bền vững, trong điều kiện của sự biến đổi khí hậu.
Chính phủ do đó
cần sớm ban hành các chính sách mạnh mẽ hơn nữa nhằm khuyến khích tích tụ ruộng
đất nhằm xây dựng vùng sản xuất lớn, “dọn đường” cho công nghiệp chế biến tăng
cường ứng dụng khoa học công nghệ, các quy trình sản xuất tiên tiến, thúc đẩy
sản xuất an toàn, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch theo chuỗi giá trị nông
nghiệp.
Sâu xa hơn, Nhà
nước và doanh nghiệp cũng cần có chính sách điều tiết và quản lý tính hiệu quả
chung của ngành, cụ thể là đối với các hộ nông dân cá thể. Ngoài những chính
sách khuyến nông thông thường như trợ giá, trợ giống, trợ vốn, hay giảm thuế
suất, các chính sách liên quan đến việc quản lý quy trình, kiểm soát chất
lượng, an toàn vệ sinh, và bao tiêu đầu ra, cũng cần được xem xét áp dụng. Nhờ
đó, nông dân không những được khoán sản lượng, mà còn được hỗ trợ, quản lý và
kiểm tra trong suốt quá trình vận hành của chuỗi giá trị nông nghiệp nhằm đảm
bảo sản phẩm làm ra đạt chất lượng và được tiêu thụ trọn vẹn.
Điều này đòi hỏi
phải thay đổi tư duy từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp” của
các nhà quản lý và hoạch định chính sách nông nghiệp cũng như các doanh nghiệp
đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, ông Trai kết luận.
Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất lượng
cao: "Mạng lưới phân phối, thương hiệu, 'bắt mạch' được thị trường"Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất lượng cao, nói về các xu hướng tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp trên thế giới hiện nay. Ảnh: Ngọc Hùng |
Diễn giả thứ hai,
bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh nghiệp
(BSA), Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất lượng cao, đến với cuộc hội
thảo bằng câu chuyện sản phẩm phở Việt Nam (thực phẩm ăn liền) do Thái Lan sản
xuất đang bán rất chạy tại thị trường Mỹ. Khi bà Hạnh đi thăm nhà máy CP ở Thái
Lan, bà được biết năng suất của nhà máy là 2 triệu gói phở Việt Nam/ngày. Không
chỉ dừng lại ở phở, một số nhà sản xuất Thái Lan cũng đang đưa đến Mỹ các sản
phẩm gốc Việt khác như bún bò Huế, mắm bà giáo Khỏe...
Ở quan điểm cá
nhân, bà Hạnh cho rằng thực tế này đưa ra bài học cho Việt Nam phải xem xét, đó
là các doanh nghiệp Thái Lan đang biết cách tổng hợp các lợi thế mà doanh
nghiệp Việt chưa làm được: mạng lưới phân phối, thương hiệu, "bắt
mạch" được thị trường, ứng dụng giải pháp công nghệ cao, tuân thủ và đảm
bảo các tiêu chuẩn toàn cầu về an toàn thực phẩm...
Từ chuyến công tác đến cuộc triển lãm thực phẩm Thái
Lan (ThaiFex 2018) gần đây, bà Hạnh đề xuất đến các doanh nghiệp nông nghiệp tại
hội thảo các công thức là CERT (liên quan đến tiêu chuẩn) và BIZLAD (nghiên cứu
khoa học và thực địa), cũng là phương thức mà Israel đang tiến hành, VAD tức
giá trị gia tăng cho sản phẩm. Theo bà Hạnh, thế giới đang thay đổi xu hướng
tiêu dùng từ 2N (ăn no, ăn ngon) thành 2S (ăn tốt cho sức khỏe và sắc đẹp) và
chú ý đến tính an toàn, thiên
nhiên và truyền thống (như bữa cơm do mẹ nấu, bữa ăn truyền thống); coi trọng
nguồn gốc thực vật và theo xu hướng ăn chay; thực phẩm gắn với yếu tố truyền
thống và bản địa; những phương thức chế biến thực phẩm mới như lên men và sấy;
xu hướng ứng dụng công nghệ quét mã vạch (QR Code) để biết tất cả thông tin về
một sản phẩm nông nghiệp....
Bà Hạnh đề nghị
Đồng Tháp nhanh chóng thành lập 2 nhóm đặc nhiệm, một chuyên về nghiên cứu xu
hướng thị trường và một chuyên về thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại,
giao thương trong nước và quốc tế. Điều này cũng góp phần giúp Việt Nam tiếp
cận những xu hướng nông nghiệp mới nhất của thế giới.
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty Rynan
Technologies Vietnam: "Doanh nghiệp sản xuất lúa gạo lại không sở hữu một
thửa ruộng nào"Ông Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty Rynan Technologies Vietnam, trình bày về mô hình canh tác nông nghiệp thông minh. |
Ông Mỹ chia sẻ câu chuyện những mô hình kinh tế dựa trên nền tảng công nghệ của thế giới như Uber, Alibaba đang tác động đến hoạt động kinh doanh không chỉ của ngành nông nghiệp mà là tất cả mọi ngành kinh tế, dịch vụ trong nước, đặc biệt khi Việt Nam đang đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
"Chúng ta
liệu có thể xây dựng công ty sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới, nhưng không sở
hữu một thửa ruộng nào được hay không?", ông Mỹ cũng đặt vấn đề có cần
phải thay đổi chính sách, quy định có liên quan đến vấn đề đất đai hay không.
"Tôi nghĩ là không cần", ông nhấn mạnh vào nói rằng ở thế giới công
nghệ 4.0 này hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó.
Theo ông, cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 bắt buộc Việt Nam phải thay đổi nhanh chóng và có sự
đột phá trong lĩnh vực hoạt động nông nghiệp, nếu muốn phát triển, nếu không sẽ
hị bỏ lại phái sau.
Dẫn chứng câu
chuyện thực tế ở Rynan Technologies, ông Mỹ cho biết cuối 2015 đơn vị này đã
chuyển hướng trong hoạt động sản xuất, qua 2 năm xây dựng, đơn vị này đã hình
thành nhà máy sản xuất 20.000 tấn phân bón theo mô hình nhà máy thông minh ở
Trà Vinh.
Qua sự nghiên
cứu và ghi nhận của bản thân, ông Mỹ cho rằng chuỗi giá trị lúa gạo hiện nay
của Việt Nam đang có nhiều điểm hạn chế: khâu gieo trồng sử dụng quá nhiều cây
giống, phân bón giả, kém chất lượng; khâu phân phối vẫn còn tình trạng "cò
mồi" thu gom hàng, thương lái ép giá; khâu chế biến chưa có sự quan tâm và
đầu tư trang thiết bị công nghệ cao nên khó kiểm soát chất lượng đầu vào và đầu
ra hạt gạo; khâu thương mại thì bị cạnh tranh bởi gạo Thái Lan, Campuchia; khâu
xuất khẩu vẫn còn tình trạng độc quyền bởi các doanh nghiệp nhà nước; khâu tiêu
thụ thì sản phẩm không truy xuất được nguồn gốc và người tiêu dùng vẫn sống
trong nỗi lo lắng gạo tồn dư hóa chất.
Chính vì vậy,
theo ông Mỹ, không thể thay đổi một chuỗi giá trị lúa gạo mà chỉ dựa vào người
nông dân, mà phải thay đổi dựa vào những tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp có tiềm
lực kinh tế, biết cách ứng dụng giải pháp công nghệ cao, biết cách liên kết
những điểm mạnh của các bên trong chuỗi cung ứng dựa trên nền tảng công nghiệp
4.0. "Đó là những điều chúng ta nên làm", ông Mỹ nhấn mạnh.
Từ quan điểm đó,
ông Mỹ cho biết, trong 2 năm qua doanh nghiệp của ông đã phát triển nhiều giải
pháp, ứng dụng dựa trên nền tảng công nghệ để canh tác lúa như máy bón phân
thông minh, máy cấy vùi, máy phun phân bón vi sinh, máy sạ lúa vùi phân và phun
vi sinh hay phao quan trắc môi trường dựa trên nền tảng kết nối Internet, và đã
đạt được những kết quả khả quan.
Cụ thể, đối với
việc bón phân chỉ cần bón 1 lần/vụ và lượng phân giảm hơn 50% so với cách
truyền thống; nước canh tác giảm hơn 30%; lượng hóa chất bảo vệ thực vật giảm
hơn 50%, công lao động, khí thải nhà kính cũng giảm. "Nhờ đó, giúp giúp
giảm tác động của ô nhiễm môi trường", ông nói.
Không dừng lại ở đó, theo ông Mỹ, doanh thu và thu
nhập của người dân ổn định hơn,
"Đặc biệt, người dân canh tác không cần ra đồng vì tất cả đều được kết nối
và điều khiển qua thiết bị thông minh", ông cho biết và cho rằng đây là
hướng đi cho ngành nông nghiệp, mà chính bản thân các hộ nông dân, các nhà sản
xuất có thể tự thực hiện, thay vì chỉ tập trung vào việc vận động chính sách từ
nhà nước.Ông Nguyễn Hồng Quang, Chủ tịch Công ty cổ phần Nông trại sinh thái (Ecofarm): "Có thêm chính sách hỗ trợ đầu tư cho hoạt động sản xuất nông nghiệp sạch"
Ông Nguyễn Hồng Quang, Chủ tịch Công ty cổ phần Nông trại sinh thái (Ecofarm), đề xuất cần có thêm chính sách hỗ trợ đầu tư cho hoạt động sản xuất nông nghiệp sạch. Ảnh: Ngọc Hùng |
Diễn giả thứ tư
phát biểu tại hội thảo là ông Nguyễn Hồng Quang, Chủ tịch Công ty cổ phần Nông
trại sinh thái (Ecofarm). Ông Quang đã phân tích câu chuyện Đồng Tháp phát
triển nông nghiệp sạch để giúp người nông dân sống tốt với nông nghiệp. Với
định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nhiều vấn đề đã được tháo gỡ, nhiều
chính sách đã được ban hành nhưng vẫn còn nhiều vấn đề người nông dân rất cần
sự hỗ trợ, giúp đỡ để phát triển kinh tế nông nghiệp.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ
mới, sản xuất nông nghiệp có sự thay đổi mạnh mẽ trên nhiều phương diện, từ kỹ
thuật canh tác như xuống giống, tưới, chăm sóc cho đến việc tổ chức quản lý,
canh tác từ xa... Có thể nói, vấn đề tạo ra sản phẩm nông nghiệp không còn là
vấn đề lớn đối với nông dân. Tuy nhiên, câu
chuyện muôn thuở của nông dân là điệp khúc "được mùa mất giá",
"giải cứu nông sản" với những vấn đề xoay quanh: chất lượng sản phẩm,
bảo quản - chế biến sau thu hoạch, chuỗi giá trị nông sản, chi phí vận chuyển,
thị trường tiêu thụ...
Ở góc nhìn của
một doanh nghiệp nông nghiệp sinh thái, Ecofarm cho rằng mục tiêu phát triển
doanh nghiệp và hỗ trợ, giúp đỡ nông dân làm kinh tế nông nghiệp luôn phải song
hành cùng nhau.
Đơn cử, Đồng
Tháp hiện đang có Làng hoa Sa Đéc, một địa điểm khá nổi tiếng ở ĐBSCL, tiếp đón
du khách theo mùa. Câu hỏi đặt ra là vì sao Đà Lạt nổi tiếng về các giống hoa á
nhiệt đới (hoa lạnh) lại có thể tiếp đón du khách quanh năm, cung cấp hoa đi
mọi miền và thành phố Đà Lạt là 1 địa danh thu hút du khách về hoa mà Sa Đéc
chỉ có một địa điểm mà không phải là một địa danh nổi tiếng về hoa nhiệt đới
của ĐBSCL. Câu hỏi này đưa đến nhu cầu về phát triển một thương hiệu chung
"Thành phố Hoa Sa Đéc", để du khách có thể đến quanh năm.
Thứ hai, Đồng
Tháp có cù lao 5 xã - Cù lao Tây, một vùng đất rất thuận lợi để hữu cơ hóa mọi
sản phẩm từ đây. Sự riêng lẻ, đơn độc của một vài hộ nông dân tâm huyết, tự
phát làm nông nghiệp hữu cơ sẽ không giải quyết được bài toán Cù lao Tây, không
thể biến nơi này thành một thương hiệu lớn về nông sản hữu cơ, thành một địa
danh du lịch nông nghiệp hữu cơ... mà đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm của toàn bộ
nơi đây trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ - xu hướng tất yếu trong một vài năm
tới.
Thứ ba, Đồng
Tháp có cồn Tân Thuận Đông - với tiềm năng to lớn về phát triển du lịch nông
nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp hữu cơ. Tương tự Cù lao Tây, cồn Tân Thuận
Đông rất thuận lợi trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao hoặc nông nghiệp
hữu cơ. Một điểm thuận lợi cơ bản là cồn Tân Thuận Đông nằm giữa hai thành phố
Sa Đéc và Cao Lãnh. Do đó, hoàn toàn có thể phát triển thành một trung tâm du
lịch nông nghiệp công nghệ cao và nông nghệ hữu cơ.
Từ ba câu chuyện
nêu trên, Ecofarm muốn chia sẻ rằng với mỗi địa phương, mỗi vùng sinh thái đặc
thù của Đồng Tháp cần có những ý tưởng, tư duy đột phá để giải quyết vấn đề
tổng thể của nông dân trên cơ sở khai thác được tiềm năng riêng có của địa
phương, của vùng để tạo nên sự khác biệt.
Theo ông Quang,
để các ví dụ nêu trên trở thành hiện thực không thể một sớm một chiều, cũng
không phải là đơn giản. Nó đòi hỏi sự kết hợp nhiều bên: chính quyền, doanh
nghiệp, nông dân, hiệp hội nghề nghiệp, ngân hàng... mà trước hết là sự đồng
lòng, đồng thuận và cả sự hy sinh một số lợi ích kinh tế của người nông dân
trong buổi đầu khởi phát.
Trước hết, cần tuyên truyền, vận động nông dân nhận
thức đúng về sản xuất nông nghiệp sạch, bền vững; bản thân mỗi nông dân không
thể tự làm thương hiệu được, mà
phải liên kết, hợp lực trong sản xuất nông sản hàng hóa có chất lượng để tăng
sức cạnh tranh trên thị trường, xây dựng thương hiệu vùng.
Bên cạnh đó,
chính quyền cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư cho sản xuất nông
nghiệp sạch hiệu quả hơn, có tính chất ràng buộc trách nhiệm hơn với người nông
dân; cần thực hiện tốt chính sách bảo hiểm nông nghiệp. Các chính sách hỗ trợ,
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn cần điều chỉnh hợp
lý hơn.
Về phía các đơn
vị khoa học, công nghệ cần có những nghiên cứu thiết thực, hiệu quả cao đối với
nông nghiệp và thị trường; cần có những dự báo sớm và chính xác về diễn biến:
nhu cầu nông sản, giá, sản lượng cung cầu... Tránh để nông dân thực hiện sản
xuất trong tình trạng "mù" thông tin.
Ông Phạm Minh Cường, đại diện Hội quán Nhân Tâm:
"Sản xuất nông sản theo yêu cầu của các đối tác bao tiêu sản phẩm"
Ông Phạm Minh Cường, đại diện Hội quán Nhân Tâm, chia sẻ câu chuyện sản xuất nông sản theo yêu cầu của các đối tác bao tiêu sản phẩm. Ảnh: Ngọc Hùng |
Đại diện cho Hội
quán Nhân Tâm, ông Phạm Minh Cường, chia sẻ kinh nghiệm về việc hơn 30 thành
viên định kỳ cùng nhau chia sẻ, hướng dẫn, hỗ trợ để cùng nhau phát triển.
"Các thành viên cùng ngồi lại trao đổi, chia sẻ thông tin, từ chuyện nhà,
chuyện xóm làng để cùng nhau hiểu, thân nhau rồi cùng nhau hợp tác, liên kết
sản xuất, khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ. Qua đó, tạo điều kiện thuận
lợi để áp dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm giảm giá
thành sản phẩm", ông Cường cho biết.
Từ sự liên kết cùng nhau, bước đầu hội quán đã liên
kết được với Công ty VinEco trong việc tiêu thụ sản phẩm của Hợp tác xã Chanh
Cao Lãnh. Nông sản sản xuất ra phải đảm bảo các yêu cầu, tiêu chuẩn về chất
lượng, an toàn thực phẩm và
được bán vào hệ thống siêu thị Vincom, Vinmart của Tập đoàn Vingroup với khối
lượng bình quân 2 tấn/tuần. Hội quán đã giúp chuyển biến nhận thức của nông dân
trong việc đưa ra cách làm mới và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Đến
nay, đã có 19 thành viên tham gia mô hình sản xuất theo yêu cầu đối tác tiêu
thụ của VinEco.
Nhằm tạo nhận
nhận thức về sản xuất an toàn, hội quán đã phối hợp với chi cục trồng trọt và
bảo vệ thực vật, trạm bảo vệ thực vật truyền thông về danh mục thuốc và tập
huấn kỹ thuật sản xuất an toàn thực hành nông nghiệp tốt cho người dân.
Ông Ngô Văn Dỡ, đại diện Hợp tác xã Xoài Mỹ Xương: "Mô hình
Cây xoài nhà tôi"
Ông Ngô Văn Dỡ, đại diện Hợp tác xã Xoài Mỹ Xương giới thiệu đến hội thảo hoạt động của mô hình "Cây xoài nhà tôi". Ảnh: Ngọc Hùng |
Ông Ngô Văn Dỡ,
đại diện Hợp tác xã Xoài Mỹ Xương giới thiệu đến hội thảo hoạt động của mô hình
"Cây xoài nhà tôi". Hợp tác xã cho ra mắt mô hình này từ tháng 9-2016
với tiêu chí phi lợi nhuận, vì lợi ích cộng đồng. Qua gần 2 năm đi vào hoạt
động, mô hình đã bán ra tổng cộng 224 cây xoài các loại với số thành viên tham
gia mô hình là 27 thành viên, với tổng số tiền thu được đem về cho thành viên
trên 830 triệu đồng.
Sản lượng xoài trong mô hình "Cây xoài nhà
tôi" đến nay đã thu hoạch và giao cho khách hàng đạt 14,2 tấn xoài. Điểm
nổi bật của mô hình là bảo đảm lợi ích (thực tế) cho
các thành viên, với mỗi cây xoài tham gia mô hình này thì nhà vườn có lợi nhuận
ít nhất 10%. Trong thời gian thực hiện mô hình, đến nay đã có 32 đoàn khách đến
tham quan "Cây xoài nhà tôi" để cùng thu hoạch và giao lưu với các
nhà vườn.
Điểm nổi bật thứ
hai là quảng bá thương hiệu, khi khách đến tham quan các vườn xoài sẽ chụp hình
đăng mạng xã hội, giúp lan tỏa thông tin về mô hình vườn xoài. Đây là kênh
quảng bá quan trọng mà nhà vườn cũng như hợp tác xã không cần tốn phí. Mô hình
cũng đã góp phần tạo thương hiệu Xoài Cao Lãnh được nhiều người biết đến.
Thứ ba, phát
triển du lịch cộng đồng khi khách đến tham quan vườn xoài xã Mỹ Xương được
thưởng thức các món ăn ngon làm từ xoài cũng như tham gia các hoạt động giải
trí như câu cá, hái rau, đổ bánh xèo...
Cuối cùng, góp
phần thay đổi tư duy sản xuất: nhà vườn thông qua khách hàng đã học hỏi nhiều
về các mặt trong đó tìm hiểu được nhu cầu thực tế của khách hàng để cải thiện
hơn dịch vụ của mình.
Hạn chế hiện nay
của mô hình này xuất phát từ sự yếu kém về hệ thống hạ tầng giao thông nông
thôn nên việc đi lại, thông thương còn bị ảnh hưởng.
Giải pháp sắp
tới để tiếp tục phát triển mô hình "Cây xoài nhà tôi", theo ông Dỡ,
là việc phân công nhân sự trực tiếp tư vấn cho khách hàng việc bảo quản sản
phẩm; vận động và hướng dẫn các nhà vườn tham gia mô hình áp dụng quy trình sản
xuất theo hướng hữu cơ đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu khách hàng; tổ chức lại khâu
vận chuyển hàng hóa đối với khách hàng ở xa, có điểm giao dịch và phân phối ở
các thành phố lớn; nâng cấp trang web để phục vụ tốt hơn việc sản xuất, kinh
doanh của hợp tác xã, trong đó có mô hình "Cây xoài nhà tôi".
Ở góc nhìn của
một cơ quan báo chí, ông Trần Minh Hùng, Tổng Biên tập nhóm Thời báo Kinh tế
Sài Gòn - đơn vị phối hợp cùng tỉnh Đồng Tháp tổ chức hội thảo, cho biết một
trong những mục tiêu mà nhóm báo theo đuổi là thông qua các chương trình, hoạt
động của mình để gắn kết giữa nông dân, doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà quản
lý.
"Thời báo
Kinh tế Sài Gòn xin cam kết là nơi mà bất cứ lúc nào độc giả đều có thể đến để
bày tỏ tâm tư hay muốn kết nối. Đối với ĐBSCL, chúng tôi cam kết luôn đồng hành
vì sự phát triển của vùng, cụ thể là qua loạt hội thảo về chủ đề khởi nghiệp ở
Cần Thơ, làm kinh tế nông nghiệp ở Đồng Tháp và sắp tới về tình hình bất động
sản tại Kiên Giang", ông Hùng nói.
Ông Trần Minh
Hùng cảm ơn sự đồng hành của tỉnh và khẳng định hội thảo hôm nay là sự bắt đầu
của chuỗi hoạt động hỗ trợ vùng ĐBSCL phát triển. "Tôi hy vọng trong tương
lai gần sẽ có thêm những hội thảo, tọa đàm về nhân lực, thu hút dòng vốn đầu tư
nước ngoài hay thậm chí có thể là tổ chức đi thực địa cho doanh nghiệp tại địa
phương".
Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Minh Hoan: "Thay đổi tư duy mùa
vụ trong nông dân, tư duy thương vụ trong doanh nghiệp"
Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Minh Hoan phát biểu kết luận cuộc hội nghị. Ảnh: Ngọc Hùng |
Tổng kết hội
thảo, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Minh Hoan, cho biết sau hội thảo hôm nay,
Đồng Tháp sẽ tiếp tục nghiên cứu các mô hình, dự án liên kết, các giải pháp tổ
chức lại sản xuất, xây dựng chuỗi ngành hàng đã được trình bày, từ đó, tỉnh sẽ
ban hành các chương trình, kế hoạch cụ thể. Các hoạt động tập trung vào hỗ trợ
nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí sản xuất, gia tăng tính liên kết,
hợp tác có hiệu quả với các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện các mô hình sản xuất
nông nghiệp thông minh, sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch gắn với
chuỗi giá trị ngành hàng. Bên cạnh đó, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi
nghiệp trong nông nghiệp, tạo động lực mới cho nông nghiệp địa phương phát
triển bền vững, hiệu quả.
Theo ông Hoan,
điểm nghẽn trong tái cơ cấu nông nghiệp hiện nay là người nông dân còn tư duy
"mùa vụ", doanh nghiệp còn tư duy "thương vụ" còn các cấp
chính quyền là tư duy "nhiệm kỳ". Để chuyển đổi tư duy từ "sản
xuất nông nghiệp" sang "làm kinh tế nông nghiệp" là một tiến
trình lâu dài, cần có nhiều "ngọn đuốc" cháy sáng, khơi dậy tinh thần
dũng cảm, làm nóng lên bầu nhiệt huyết đổi mới, sáng tạo trong cách nghĩ, cách
làm của người nông dân và ngay chính trong hệ thống chính trị.
Cuộc hội thảo đã góp phần đưa ra định hướng phát triển
cho nông nghiệp Đồng Tháp trong tương lai, và Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp hy vọng
những "ngọn đuốc" sẽ tiếp tục được các bên, từ cấp quản lý, chuyên
gia, doanh nghiệp đến nhà sản xuất, nông dân cùng
gìn giữ, từ đó, tạo thêm ngày càng nhiều điểm sáng hơn nữa cho Đồng Tháp trong
hành trình chuyển đổi tư duy phát triển nông nghiệp bền vững.
* Đã đăng TBKTSG Online 9-6-2018:
* Mời xem thêm tại
một số địa chỉ bên dưới:
Video, bài viết trên Cổng TTĐT tỉnh ĐT:
Link video, bài viết của THĐT:
Video,
bài của Đài THĐT:
Video từ phút
3:
Bài trên Báo ĐT Online:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét