Chiến tranh biên giới 1979 Không sợ kẻ thù, chỉ sợ lãng quên
Một
ngày cuối hè năm 1979, Long về nhà. U anh đang sàng gạo ngoài sân. Long
dừng chân cạnh u: “U đang sàng gạo ạ?”. Người mẹ chẳng ngước mắt lên,
chỉ nói “Ừ”. Rồi lại cặm cụi làm. Long bước vào nhà. Lúc này u mới nhìn theo: bà tưởng
cái bóng áo xanh lúc nãy là một anh bộ đội ở doanh trại gần nhà đi ngang
qua hỏi thăm. Sao lại bước vào nhà? “Ô thằng Long đấy à?” - bà thốt
lên. Rồi u chạy vào, ôm chặt Long khóc nức nở. U đã đòi lập bàn thờ anh được mấy tháng - nhưng thầy
anh cản không cho. Thằng Long chưa chết, thầy anh quả quyết, không biết
vì sao. Đã mấy lần thầy lên biên giới, cố tìm xác con, nhưng không thấy. Hôm ấy, cả làng kéo đến nhà Long, bỏ cả buổi xem vô
tuyến ở doanh trại bộ đội. Mừng tủi. Đã nửa năm trôi qua, chẳng ai nghĩ
Long còn sống. Làng Trường Lâm ở ngoại ô Hà Nội này, 7 đứa đi chiến trường biên giới, thì đã có bốn người vĩnh viễn không trở về.
Âu Xuân Long nhập ngũ tháng 5/1978. Sau một đợt huấn
luyện ngắn, Long được điều lên Văn Lãng, Lạng Sơn. Chàng trai vừa tròn
18 vẫn hồn nhiên như trẻ con. “Trên cột mốc hồi ấy có cây bưởi sai lắm,
vẫn ở tuổi tranh nhau cái gậy để chọc bưởi mà, có biết gì đâu” - anh nhớ
rất chi tiết những ngày tháng bình yên ấy. Từ quả đồi nơi đóng quân
nhìn xuống là biên giới, bà con trong bản vẫn lại qua bình thường buôn
bán. Mọi chuyện chỉ bắt đầu thay đổi từ tháng 8. Buổi sáng
25/8/1978, cách chỗ Long đóng quân chỉ vài cây số, một người bạn đồng
niên hy sinh. Trên đồi Pù Tèo Hào hôm ấy, chiến sĩ Lê Đình Chinh
ngã xuống sau một nhát dao của những kẻ thù mặc thường phục tràn từ bên
kia biên giới sang. Anh vừa 18 tuổi. Sau này, người ta tìm thấy một lá
thư anh Chinh viết ba ngày trước hôm đó. Người ta gọi Lê Đình Chinh là chiến sĩ đầu tiên hy
sinh trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Ngày 25/8, trong trí nhớ
Âu Xuân Long, trở thành dấu mốc của sự căng thẳng leo thang. Phía Trung
Quốc bắt đầu tăng tuần suất bắc loa qua biên giới tuyên truyền kích
động bằng tiếng Việt. Long không nhớ nội dung chúng nói: “Nói vớ vẩn,
nghe làm gì”.
Giai đoạn đó, hai bên đều chưa có động thái quân sự
chính thức. Nhưng phía Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng việc chống lại một
cuộc tấn công: dân quân được huy động để cắm chông dọc biên giới. “Mình
cứ cắm nó lại nhổ” - Âu Đức Thành, một trong 3 người lính của làng
Trường Lâm may mắn trở về, nhớ lại. Căng thẳng cứ thế tiếp diễn trong hơn nửa năm tiếp theo, cho đến khi kẻ thù đi bước đầu tiên của mình.
5 giờ sáng 17/2/1979, bầu trời biên giới bỗng sáng rực. Âu Đức Thành đóng quân cách biên giới hơn 10km. Đêm
ấy, nhìn về phía chân trời, anh thấy những luồng sáng như chớp trước cơn
giông lớn. “Trung Quốc đánh mình rồi” - anh nói với đồng đội. Một cơn
mưa đạn pháo trút sang từ phía Bắc. Cuộc chiến tranh biên giới 1979
chính thức bắt đầu. Long và Thành là lính của Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 -
những người trấn giữ Đồng Đăng, trận địa ác liệt nhất của cuộc chiến
tranh biên giới. Nhiều đồng đội của các anh, những người cùng tuổi mười tám đôi mươi, đã nằm lại trong cuộc giành giật từng tấc đất biên cương. “Người chết trên đất thì không sao, nhưng chết dưới
ruộng thì ám ảnh lắm” - Thành kể về những ngày đi khâm liệm cho đồng
đội. Người chết dưới ruộng, xác sẽ trương lên. Anh không nhớ mình đã
chôn bao nhiêu đồng đội. Không có gì để liệm, chỉ có chính võng và tăng
(tấm che trên võng) của người chết, cuốn lại, rồi chôn. “Mùi tử khí ám
vào người, có những ngày không ăn nổi cơm”.
Hai người bạn chăn trâu cùng làng của Long và Thành
hy sinh ở Pháo Đài Đồng Đăng ngày 22/2. Pháo đài ấy đã đẩy lùi hàng chục
cuộc tấn công cấp sư đoàn của Trung Quốc trong 5 ngày liên tục. Họ
cương quyết không nghe những lời kêu gọi đầu hàng cho đến tận phút cuối.
Quân Trung Quốc phá cửa, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, hóa chất vào
các lỗ thông hơi, giết cả những người dân vùng xung quanh đang lánh nạn
tại nơi này.
Âu Xuân Long bị địch bắt vào cuối tháng 2. Đời tù
binh khởi đầu bằng những trận đòn thù. “Chúng nó bắt được mình thì phải
đánh thôi. Anh em bạn bè nó vừa chết mà” - người đàn ông tóc đã bạc gần
hết, kể bình thản. Ông bị địch đưa đi mấy ngày mấy đêm, rồi nhốt ở một
ngôi trường bỏ hoang, cùng với vài chục bộ đội và hơn hai trăm người dân
thường.
Cuộc tấn công dã man không chỉ hướng vào quân đội
Việt Nam. Hơn 10.000 dân thường đã thiệt mạng trong cuộc chiến. Mục tiêu
của Trung Quốc là một cuộc tấn công phá hoại. Hàng nghìn công trình công cộng, từ ủy ban, trường học, bệnh viện và xí nghiệp; hàng vạn ngôi nhà và héc-ta hoa màu bị phá. Long được thả trong đợt trao đổi tù binh ngày
20/6/1979. Anh đi bộ từ cửa khẩu xuống chợ Đồng Đăng, và nhận ra rằng
thị xã đã biến mất. “Vắng lạnh lắm. Chúng nó phá từ cái cột điện đến cầu
cống”. Một nửa trong số 3,5 triệu đồng bào sống dọc biên giới phía Bắc, đã mất nhà cửa sau cuộc chiến ấy.
Năm 1975, khi nghe tin
miền Nam đã được giải phóng, cậu bé Âu Xuân Thành khi ấy đã vô cùng háo
hức. Cậu nghe kể rằng miền Nam rất giàu có, và nghĩ: thống nhất được
miền Nam thì sướng rồi. “Thấy người ta bảo vùng Đồng Tháp Mười thẳng
cánh cò bay, ruộng lúa chẳng cần cầy cấy gì, cứ gieo hạt xuống là rung
đùi chờ có gạo ăn thôi. Nghĩ thế là sắp sướng rồi” - ông nhớ lại - “Hồi
ấy vẫn còn nghĩ ấu trĩ như thế”. Sự háo hức qua đi rất nhanh. Năm 1977, căng thẳng
Việt-Trung bắt đầu được đẩy lên cao. Năm 1978, chiến tranh biên giới Tây
Nam nổ ra. Năm 1979, Âu Đức Thành cầm súng tham gia chiến tranh biên
giới phía Bắc. Ra quân, đi học lái xe rồi trở thành quân nhân chuyên
nghiệp, hơn 40 năm sau, cậu bé Thành ngày nào - bây giờ đã nghỉ hưu với
hàm trung tá - nhận ra một thực tế.
Sau chiến tranh biên giới 1979, căng thẳng biên giới
vẫn tiếp diễn. Năm 1984, Trung Quốc lại mở cuộc tấn công quy mô lớn vào
Hà Giang. Lại một lớp thanh niên nữa của ngôi làng nhỏ bé này ra đi, lại
có người không trở về. Và ngay cả những người trở về cũng chưa lành vết thương chiến tranh, dù hơn 30 năm đã trôi qua.
Ông Hường không còn bàn chân trái. Ông đã để lại nó ở
Vị Xuyên, Hà Giang, và mang về rất nhiều mảnh đạn trong người - đến bây
giờ vẫn chưa lấy hết ra. Nhưng trong trí nhớ của ông, ký ức về cuộc
chiến bây giờ đã mờ: cái người cựu chiến binh đối mặt, là cơm áo.
Chiếc xe thương binh để ngoài cửa, chờ có ai vô tình
biết số điện thoại gọi đến thì đi. “Người ta giả thương binh, nhưng có
sức khỏe, chạy như trâu. Mình què quặt, chỉ ngồi chờ người ta gọi, không
kiếm ra tiền”. Cuộc nói chuyện với ông Hường, không phải là về ký ức
huy hoàng của những ngày bảo vệ biên giới. Ông phàn nàn về chế độ với
con cái, thỉnh thoảng bị chính quyền “quên”, về những ngày kỷ niệm qua
loa, về chính sách. Ông cũng chẳng hào hứng lắm khi kể về chiến tranh.
“Nhà báo có viết thì viết về bọn giả danh thương binh ấy” - ông nhắc đi
nhắc lại lời đề nghị. Đấy là nỗi ám ảnh lớn nhất của người đàn ông sắp
bước sang tuổi lục tuần. Sự vinh danh đáng kể nhất mà những cựu binh biên giới
- như trong mắt ông Hường - nhận được đến hôm nay, lại là việc người ta
giả danh họ, khoác những chiếc áo xanh lá mạ, để kiếm ăn. “Có một cuộc kỷ niệm cấp tỉnh, cấp nhà nước nào về
chiến tranh biên giới không nhỉ?” - ông Thành hỏi người viết. Ông không
nhớ rằng có. “Con cái bây giờ, kể cho chúng nó nghe, như kể chuyện cổ
tích. Trên TV đài báo có nhắc đến mấy đâu mà chúng nó biết” - người lính
già than thở. Ông không muốn những gì đã diễn ra bị lãng quên.
“Phải nhớ chứ. Bây giờ hàn gắn rồi, thì mình không kích động, không hằn
thù, nhưng không thể quên được. Phải nhớ là đất nước mình không một ngày
bình yên”.
Không chỉ có những cựu binh sợ rằng cuộc chiến tranh ấy sẽ bị lãng quên. Đó là ngày 17/2/2016, thầy Vũ Văn Khánh quyết định rằng mình sẽ tự tổ chức một cuộc tưởng niệm Chiến tranh biên giới.
Khánh là một thầy giáo dạy văn ở trường THPT An Thới,
Phú Quốc, Kiên Giang. Anh thú nhận rằng tới tận năm ngoài 30 tuổi, anh
mới lần đầu tiên hiểu kỹ về Chiến tranh biên giới 1979. “Ở ngoài đảo,
mình không có điều kiện tiếp cận thông tin, vào Internet, sách giáo khoa
thời mình thì không nhắc đến mấy” - anh kể. Khi biết đến, Khánh đã phải
nhờ rất nhiều bạn bè ở các trường đại học gửi tài liệu cho đọc, để biết
thêm về cuộc chiến ấy. Anh quyết định rằng mình sẽ không để các em học
sinh phải chịu điều ấy - dù anh là một thầy giáo dạy văn, không phải dạy
sử. Tiết học Khánh chọn, là sau khi anh giảng xong cho
học sinh về “Bình Ngô đại cáo” - tác phẩm tuyên bố chủ quyền dân tộc
trước giặc xâm lăng phương Bắc. Anh dành một tiết học ngồi kể cho học sinh về cuộc
chiến, về diễn biến, và những đau thương mà nó mang lại. Rồi người thầy
giáo khóc. Gia đình anh cũng có nhiều liệt sĩ. Anh nhớ bà ngoại, mất
chồng từ năm 26 tuổi, nhớ người cậu ruột hy sinh ở chiến trường biên
giới Tây Nam. Học sinh trong lớp cũng đồng loạt khóc theo. Rồi cả lớp
đứng dậy, dành một phút tưởng niệm cho những người đã ngã xuống trong
ngày 17/2/1979. Tiết học ấy sau này trở nên nổi tiếng trên báo chí.
Bởi vì nó đặc biệt: những cuộc tưởng niệm như thế không được tổ chức ở
nhiều nơi trên đất nước, đặc biệt với những người ngoài quân ngũ. Nhưng năm nay, gọi điện lại, thầy giáo Khánh tâm sự
rằng có lẽ mình sẽ vẫn chỉ tổ chức kỷ niệm cho những lớp anh đứng - với
tư cách cá nhân. Sách giáo khoa lịch sử, vẫn chỉ có 11 dòng về chiến
tranh biên giới, và nhiều nơi thậm chí 11 dòng này còn được đưa vào
chương trình giảm tải, nghĩa là học sinh tự đọc. Ở trên khắp đất nước, còn có bao nhiêu thanh niên như
Khánh, sinh ra ngay sau khi tiếng súng vừa im, đã ngoài 30 nhưng chưa
một lần được nghe về “Chiến tranh biên giới”? Thậm chí là chính những lính năm ấy cũng đang quên.
Họ đều đã già. Bây giờ mỗi năm, đến ngày 15/5, ngày thanh niên trong
làng nhập ngũ năm 1978 ấy, ông Thành lại đứng ra gọi anh em đồng ngũ gặp
mặt. “Không phải để nhậu đâu, mà để nhắc nhau nhớ lại”. Những người
lính già, sau bao nhiêu năm chiến đấu với cơm áo, có khi cũng chẳng còn
nhớ được chính mình đã làm gì. “Phải ngồi lại với nhau, để người này nhắc người kia, ngày ấy mày làm gì, làm gì. Không thì chẳng nhớ được đâu” - ông Thành kể. Những người lính già ấy, nói về chiến tranh với một
vẻ đầy bình thản. Nhưng họ chua chát khi nói về sự lãng quên. Chính bản
thân họ, sau bao nhiêu năm, cũng không cưỡng lại được sự phai mờ của ký
ức. Họ sợ sự quên ấy, chứ không sợ kẻ thù.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét